Chuyên mục chính

  • Nghi lễ vòng đời
    • Hôn lễ
    • Sinh con
    • Động thổ làm nhà
    • Mừng thọ và sinh nhật
    • Tang ma
    • Ngày giỗ
  • Nghi lễ hàng năm
    • Dịp Tết Nguyên Đán 1/1
    • Dâng sao giải hạn 15/1
    • Nguyên tiêu 15/1
    • Tết Thanh minh 3/3
    • Tết Hàn thực 3/3
    • Tết Đoan ngọ 5/5
    • Lễ Thất Tịch 7/7
    • Lễ Vu Lan 15/7
    • Tết Trung Nguyên 15/7
    • Tết Trung thu 15/8
    • Tết Trùng Cửu 9/9
    • Tết Cơm mới (10-15/10)
    • Tết Táo Quân 23/12
    • Ngày mùng 1 hàng tháng
    • Ngày rằm hàng tháng
  • Đặc trưng văn hóa Việt
    • Chữ và Nghĩa
    • Phong tục thờ cúng
    • Văn hóa giao tiếp
    • Món ăn truyền thống
    • Trò chơi dân gian
    • Trang phục truyền thống
    • Nghệ thuật truyền thống
    • Di sản văn hoá
    • Nền nếp sinh hoạt
  • Tôn giáo tín ngưỡng
    • Phật giáo
    • Công giáo
    • Thờ cúng tổ tiên
    • Thờ cúng tổ nghề
    • Tín ngưỡng thờ Thần
    • Tín ngưỡng thờ Mẫu
    • Tôn giáo khác

Menu

  • Trang đầu
  • Giới thiệu
  • Liên hệ

Follow Us

DMCA.com Protection Status
Cổ Phong
No Result
View All Result
Khóa học
Cổ Phong
No Result
View All Result
Home Nghi lễ hàng năm Lễ Thất Tịch 7/7
Screenshot 1762137905

Lễ Thất Tịch (Tết Ngâu)

Dẫn nhập: Trong kho tàng văn hóa Á Đông, mỗi lễ hội truyền thống đều là kết tinh của những lớp trầm tích lịch sử, tín ngưỡng và mỹ cảm dân gian được vun đắp qua hàng nghìn năm. Trong đó có lễ Thất Tịch gắn với truyền thuyết tình yêu đẹp lay động lòng người về Ngưu Lang và Chức Nữ. Lễ Thất Tịch không chỉ là biểu tượng của tình yêu chung thủy mà còn là minh chứng cho sự kết hợp và giao thoa giữa thiên văn, lễ nghi và văn hóa nữ giới trong xã hội cổ truyền Trung Hoa. Xuyên suốt chiều dài lịch sử hơn hai nghìn năm, lễ Thất Tịch đã vượt khỏi phạm vi một nghi thức dân gian để trở thành hiện tượng văn hóa có sức lan tỏa rộng khắp các quốc gia chịu ảnh hưởng của văn hóa đồng văn bao gồm Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam.

Tác giả: Thủy Nguyễn

 

Từ khóa: Thất Tịch, Tết Ngâu, Ngưu Lang, Chức Nữ, Ông Ngâu Bà Ngâu.

Nguồn gốc

Lễ Thất Tịch diễn ra vào đêm mùng bảy tháng bảy Âm lịch, là một trong những ngày lễ truyền thống lâu đời và lãng mạn nhất của văn hóa Trung Hoa, thường được gọi bằng nhiều tên khác như “tiết Khất Xảo” (ngày cầu khéo tay) hay “Nữ nhi tiết” (ngày của thiếu nữ). Từ hàng ngàn năm trước, đây đã là dịp được các cô gái thời xưa coi trọng, bởi họ tin rằng trong đêm này, nếu thành tâm khấn cầu, sẽ được ban cho sự khéo léo, đảm đang và hạnh phúc trong tình duyên.

Screenshot 1762137905

                                                                              (Ảnh: Weixin)

Truyền thuyết

Nguồn gốc của lễ Thất Tịch bắt nguồn từ một chuyện tình cảm động về Ngưu Lang và Chức Nữ thời Đông Hán. Tương truyền cha mẹ Ngưu Lang mất sớm, thường bị anh trai và chị dâu ngược đãi, sống nương tựa với một con bò già. Bò già cảm động bởi lòng tốt của chàng,chỉ kế chàng cách cưới Chức Nữ làm vợ. Một ngày nọ, các tiên nữ xuống sông Ngân Hà tắm, Ngưu Lang ẩn mình ở bờ sông bất ngờ trông thấy và phải lòng Chức Nữ. Dưới sự gợi ý của bò, Chức Nữ đồng ý làm vợ chàng. Sau khi cưới, Ngưu Lang và Chức Nữ sống cuộc đời hạnh phúc với cảnh chồng cày vợ dệt, yêu thương đầm ấm. Một năm sau còn sinh được một cặp trai gái. Trước khi chết, bò già dặn Ngưu Lang hãy nhớ giữ lại da của nó, khi gặp nạn thì khoác lên người để cầu cứu. Sau khi bò già chết, hai vợ chồng nén đau lột da bò, chôn xác nó trên sườn núi. Ngọc Hoàng Đại Đế và Vương Mẫu Nương Nương biết chuyện Chức Nữ thành hôn với Ngưu Lang thì nổi giận, lập tức sai thiên thần xuống trần bắt Chức Nữ về trời. Ngưu Lang về nhà không thấy Chức Nữ, liền gánh theo hai con đuổi theo. Đang sắp đuổi kịp Chức Nữ thì Vương Mẫu Nương Nương rút chiếc trâm vàng (cũng có thuyết nói là trâm ngọc) trên đầu ra vạch một đường chia Ngưu Lang và Chức Nữ thành hai bên, hóa thành dải Ngân Hà, từ đó hai người chỉ có thể đứng hai bờ sông trời mà trông nhau. Về sau, Vương Mẫu Nương Nương cho phép họ mỗi năm được gặp nhau vào ngày mùng bảy tháng bảy. Vì thế, người ta lấy ngày bảy tháng bảy làm đêm Ngưu Lang Chức Nữ gặp nhau trên cầu Ô Thước, gọi là Thất Tịch. Tương truyền vào đêm Thất Tịch, khi ngẩng đầu ngắm trời sao, người ta có thể thấy Ngưu Lang và Chức Nữ ở hai bên bờ Ngân Hà đang gặp gỡ, thổ lộ tình cảm trên trời.[1] Vào đêm Thất Tịch, con người ngẩng nhìn bầu trời, dõi theo hai ngôi sao Ngưu Lang – Chức Nữ sáng rực hai bên sông Ngân Hà để tưởng nhớ mối tình thủy chung của họ và gửi gắm ước nguyện về một tình yêu bền chặt.

Screenshot 1762137887

(Ảnh: Weixin)

Cơ sở thực tiễn

Thực tế, Thất Tịch ban đầu bắt nguồn từ sự sùng bái của con người đối với hiện tượng thiên văn và sự phát triển của kỹ thuật dệt. Từ thời Kinh Thi[2], con người đã có sự nhận thức về hiện tượng thiên văn liên quan. Việc đặt tên các ngôi sao bắt nguồn từ thực tiễn sản xuất và sinh hoạt của con người. Trong thời cổ đại, ý nghĩa chủ yếu của thiên văn đối với dân chúng là chức năng định thời gian. Sự biến đổi của tinh tượng là dấu hiệu của sự thay đổi tiết trời và chu kỳ nông nghiệp. Hai ngôi sao Khiên Ngưu và Chức Nữ bắt nguồn từ hiện tượng đàn ông cày cấy và phụ nữ dệt vải trong thời đại văn minh nông nghiệp. Người Chu khi quan sát bầu trời đã phát hiện ba ngôi sao ở bờ bắc Ngân Hà (cổ gọi là Thiên Hán), Từ sáng đến tối có bảy lần thay đổi vị trí, Quỹ đạo chuyển động của chúng hơi giống trục quay khi dệt vải. Vì vậy, người ta hình tượng hóa mà gọi ba ngôi sao này là Chức Nữ. Khiên Ngưu là ngôi sao ở phía bên kia Ngân Hà, đối diện xa với sao Chức Nữ; thời thượng cổ, việc xác định thời gian Thất Tịch bắt nguồn từ sự thay đổi vị trí của sao Chức Nữ. Người Trung Quốc cổ đại gọi mặt trời, mặt trăng cùng năm hành tinh Thủy, Hỏa, Mộc, Kim, Thổ là Thất Diệu (bảy ánh sáng). Thất Diệu cũng chính là cơ sở để tính tuần lễ ngày nay. Số bảy trong dân gian thể hiện tính chu kỳ trong thời gian, trong tính toán thời gian thường lấy bảy bảy bốn chín làm kết thúc. Từ “Thất” có sự đồng âm “phụ” (vợ), vì vậy Thất Tịch đã trở thành ngày lễ diễn ra các hoạt động dân gian liên quan đến nữ giới. Theo phong tục xưa, ngày Thất Tịch còn là dịp phụ nữ cầu khéo tay, cầu may và thử tài nữ công.[3]

Screenshot 1762137952

(Ảnh: Chòm sao Chức Nữ và Khiên Ngưu, nguồn: Weixin)

Trải qua hàng nghìn năm, ý nghĩa của lễ Thất Tịch đã vượt khỏi phạm vi một lễ hội dân gian, trở thành biểu tượng của tình yêu chân thành son sắt, là dịp để con người tôn vinh sự gắn bó, khát vọng đoàn viên và còn là vẻ đẹp của lòng chung thủy giữa đời thường.

Tiến trình hình thành và các nghi lễ xoay quanh ngày Thất Tịch

Thời Chiến Quốc cuối Thu Đông, như trong Thi Kinh – Tiểu Đông có viết: “跂彼织女,终日七襄。虽则七襄,不成报章;睆彼牵牛,不以服箱。”[4] / “Trên trời có Ngân Hà, sáng rực như ánh gương; nhìn kia Chức Nữ, suốt ngày dệt vải bảy lượt; tuy dệt bảy lượt, mà chẳng thành khung vóc. Trông kia Khiên Ngưu, không để kéo xe.” Đây là ghi chép sớm nhất có nhắc đến hai từ “Ngưu Lang” và “Chức Nữ”. Bài thơ sử dụng thủ pháp nghệ thuật nhân hóa, mượn hình tượng về một đôi nam nữ đang lao động để nói về chòm sao Khiên Ngưu và Chức Nữ. Khi này, hình tượng này vẫn chưa có mối liên hệ với câu chuyện tình yêu nào cả.

Sách Xuân Thu Mệnh Lịch Tự chép: “日月五纬俱起牵牛”[5] / “Mặt trời, mặt trăng và năm hành tinh cùng mọc tại chòm sao Khiên Ngưu.”

Sách Lễ Ký – Nguyệt Lệnh chép: “孟夏之月,日在毕,昬翼中,旦婺女中”[6] / “Tháng đầu mùa hạ, mặt trời ở chòm Tất, chiều tối ở giữa chòm Dực, sáng sớm ở giữa chòm Vụ Nữ.” Sao Vụ Nữ về sau được thần thoại hóa thành nữ thần, trong dân gian gọi là Thất Tỷ, Thiên Tiên Nương Nương, Thất Tinh Nương Nương,… Bà được xem là nữ thần dệt mây, vị thần bảo hộ cho tình duyên đôi lứa, phụ nữ và trẻ em. Ngày mùng bảy tháng bảy âm lịch được coi là ngày sinh của bà.

Mãi đến thời Hán, các nghi lễ mới bắt đầu liên hệ với câu chuyện Ngưu Lang – Chức Nữ, về sau dân gian tiếp tục phát triển câu chuyện, sáng tạo nên truyền thuyết tình yêu đẹp giữa Ngưu Lang và Chức Nữ.

Sách Phong tục thông nghĩa của Ứng Thiệu đời Hán chép rằng: “织女七夕当渡河,使鹊为桥,相传七日鹊首无故皆髡,因为梁以渡织女故也”[7] / “Vào ngày Thất Tịch, Chức Nữ phải vượt sông, sai chim khách làm cầu; tương truyền rằng ngày mùng bảy, đầu chim khách không lý do gì đều trụi lông, vì dùng làm cầu để Chức Nữ vượt sông vậy.”

Sang đến sách Kinh Sở tuế thời ký, những ghi chép về câu chuyện Ngưu Lang Chức Nữ đã dần dần sáng tạo và hoàn chỉnh mang đến một câu chuyện tình yêu đầy bi thương: “天河之东有织女,天帝之子也,年年织杼劳役,织成云锦天衣。天帝怜其独处,许嫁河西牵牛郎。嫁后遂废织。天帝怒,责令归河东,使一年一度相会。”[8] / “Phía đông sông Ngân có Chức Nữ, là con gái của Thiên Đế, hằng năm dệt vải vất vả, dệt thành áo trời bằng mây gấm. Thiên Đế thương nàng cô đơn, cho phép gả nàng cho Ngưu Lang ở phía tây sông. Sau khi lấy chồng, nàng bỏ bê việc dệt. Thiên Đế tức giận, bắt nàng quay về phía đông sông, cho mỗi năm chỉ được gặp nhau một lần.”

Các phong tục, nghi lễ trong ngày Thất Tịch

  • Khất xảo (thi khéo tay, khéo léo)

Trong sách Tây Kinh tạp ký của Cát Hồng có chép: “汉彩女常以七月七日穿七孔针于开襟楼,人具习之。”[9] / “Cung nữ nhà Hán thường vào ngày mùng bảy tháng bảy xâu kim bảy lỗ ở lầu Khai Khâm, mọi người đều bắt chước theo.” Vào thời Hán, nữ nhân tham gia cuộc thi xỏ kim so tài khéo léo vào ngày mùng bảy tháng bảy. Họ buộc những sợi chỉ nhiều màu sắc và xỏ qua một cây kim bảy lỗ, xỏ càng nhanh thì càng được nhiều kỹ năng. Người nào xỏ chậm hơn thì là người thua, phải tặng một món quà đã chuẩn bị trước cho người thắng.

Screenshot 1762243694

(Ảnh: Thi xỏ kim xâu. Nguồn: Weixin)

Tông Diễn thời Nam Triều (Nam Lương) trong Kinh Sở tuế thời ký viết: “七月七日,妇女结彩楼穿七孔外,或以金银愉石为针。”[10] / “Ngày mùng bảy tháng bảy, phụ nữ dựng lầu trang trí màu sắc để xâu chỉ qua bảy lỗ, hoặc dùng vàng bạc, ngọc đẹp làm kim.”

Chu Mật đời Tống trong Càn Thuận tuế thời ký viết: “以小蜘蛛贮合内,以候结网之疏密为得巧之多寡。”[11] / “Đặt nhện nhỏ trong hộp, sau đó quan sát mạng nhện giăng thưa hay dày để đoán mức độ khéo tay.”

Screenshot 1762244341

(Ảnh: Hỷ chu ứng xảo – Nhện lành ứng với sự khéo léo. Nguồn: Weixin)

Đào Ngột Nghi thời Nguyên trong Viên Thị gia đình nghi viết: “九引台,七夕乞巧之所。至夕,宫女各以五彩丝穿九尾针,先完者为得巧,迟完者谓之输巧,各出资以赠得巧者焉。”[12] / “Đài Cửu Âm là nơi khất xảo vào ngày Thất Tịch. Đến tối, các cung nữ dùng chỉ năm màu xâu đuôi kim, ai xâu xong trước là được xem là khéo tay, ai sau là thua, mỗi người đều chuẩn bị quà tặng cho người khéo tay.”

Lưu Đồng và Vu Dịch Chính đời Minh trong Đế Kinh cảnh vật lược viết: “七月七日之乞巧节,妇女曝盆水日中,俯之,水膜生面,绣针投之则浮,看水底针影。有成云物花头鸟兽者,有成鞋及剪刀水茄影者,谓之得巧;其影粗如绳,细如丝,直如轴辄,此拙征矣。”[13] / “Vào ngày lễ khất xảo mùng bảy tháng bảy, phụ nữ phơi chậu nước giữa nắng, cúi nhìn, nước nổi màng, thả kim thêu vào thì nổi lên, xem bóng kim dưới đáy nước. Nếu bóng hình thành mây hoa, đầu chim thú, hoặc giày, kéo, cà thì gọi là khéo; bóng mà thô như dây, mảnh như chỉ, thẳng như trục thì là vụng.” Đây là một biến thể của phong tục cầu khéo bằng cách xâu kim trong lễ Thất Tịch, bắt nguồn từ việc xâu kim nhưng lại khác với xâu kim, là tục lệ phổ biến trong hai triều Minh và Thanh.

Vu Mẫn Trung đời Thanh trong Nhật Hạ Cựu Văn Khảo dẫn Viên Đậu Tạp Ký viết: “燕赵女子七月七日以碧水曝日下,各自投小针浮于水面,徐视水底日影。或散如花,动物如飞,细如线,粗粗如绳,因此女之巧。”[14] / “Phụ nữ vùng Yên – Triệu, vào ngày mùng bảy tháng bảy, lấy nước trong biếc để dưới ánh nắng, mỗi người thả kim nhỏ nổi trên mặt nước, từ từ xem bóng dưới đáy nước. Nếu bóng lan như hoa, động như chim bay, mảnh như sợi, thô như dây thừng, thì được gọi là sự khéo tay của người con gái.”

  • Khất cầu nhân duyên

Vào đêm Thất Tịch, những đôi nam nữ có tình đều hướng tâm lên bầu trời thành tâm khấn nguyện với Chức Nữ để cầu mong nhân duyên trọn vẹn, tình cảm lâu bền. Chức Nữ là vị tiên nữ xinh đẹp, thông tuệ và khéo léo, trở thành biểu tượng về người phụ nữ lý tưởng. Trong đêm Thất Tịch, các cô gái trần gian không chỉ cầu xin đôi tay khéo léo và trí tuệ minh mẫn, mà còn gửi gắm ước vọng được se duyên cùng người mình thương, để tình yêu viên mãn như mối tình bất diệt của Ngưu Lang – Chức Nữ.[15] Do vậy, ngày Thất Tịch không chỉ là biểu tượng của tình yêu vợ chồng không lìa không bỏ, đầu bạc răng long mà còn là lời nhắc về sự thủy chung son sắt giữa hai người yêu nhau. Câu chuyện tình giữa Ngưu Lang và Chức Nữ đã trở thành huyền thoại ngàn đời ở Trung Hoa, vượt qua chia cách, khổ đau, vẫn giữ trọn lòng son và lời hứa. Chính vì thế, Thất Tịch từ lâu đã mang trong mình sắc thái lãng mạn, là ngày mà tình yêu được tôn vinh và hy vọng được tái sinh.

  • Tắm nước Thất tiên

Theo truyền thuyết dân gian, vào ngày Thất Tịch, bảy vị tiên nữ trên trời sẽ hạ phàm xuống sông suối để tắm; nước sông khi ấy vì nhiễm tiên khí, người tắm không những gặp vận đào hoa mà còn có thể phòng ngừa bệnh tật. Tại các vùng dân gian như Bách Sắc, Tĩnh Tây ở Quảng Tây, người ta cho rằng nước của ngày mùng bảy tháng Bảy âm lịch là vô cùng thanh khiết và sạch sẽ. Nước Thất Tịch không chỉ có thể trừ tà tránh bệnh, mà còn giúp cho tình yêu viên mãn, cuộc sống hạnh phúc.[16]

  • Cầu con

Bên cạnh ý nghĩa về tình yêu và sự khéo léo, trong lễ Thất Tịch người Hán còn cầu con, cầu sinh sôi nảy nở. Theo phong tục cổ, vài ngày trước đêm Thất Tịch, người ta thường rải một lớp đất mịn lên tấm ván nhỏ rồi gieo hạt kê. Khi những hạt này nảy mầm xanh mướt, họ đặt lên đó những túp lều nhỏ, cành hoa, mô phỏng cảnh làng quê gọi là “xác bản” (版社), tức là mô hình thu nhỏ của đời sống nông nghiệp. Hình ảnh này tượng trưng cho sự khởi sinh, sinh trưởng và thịnh vượng, gắn liền với ước vọng có con cháu đầy đàn, mùa màng tốt tươi.[17]

Ngoài ra, người Hán còn có tục ngâm hạt đậu xanh, tiểu mạch, tiểu đậu trong bát sứ, đợi đến khi mầm mọc dài vài phân thì dùng dây đỏ và dây xanh buộc lại thành bó, gọi là “chủng sinh” (种生) tức gieo sự sống, hay còn gọi là “Ngũ sinh bồn” hoặc “Sinh hoa bồn”. Màu đỏ và xanh tượng trưng cho sinh khí và phúc lộc, thể hiện niềm tin rằng sự giao hòa âm dương sẽ đem lại con cái và sự phát đạt. Ở các vùng phía Nam Trung Hoa, phong tục này còn được gọi là “ngâm khéo”. Những mầm non mọc lên được dân gian gọi là “mầm khéo”, tượng trưng cho sự khéo léo và sinh lực, đôi khi được dùng thay cho kim trong nghi lễ “thả kim cầu khéo” trên mặt nước.

Ngoài ra, người ta còn nặn tượng bằng sáp, mô phỏng Ngưu Lang, Chức Nữ, uyên ương, kền kền…, thả nổi trên nước, tượng trưng cho sự hài hòa, lưu chuyển của sinh khí. Còn có một tập tục đặc biệt là “Hóa sinh”, người phụ nữ sẽ mua tượng em bé bằng sáp, mang về đặt trong nhà hoặc thả trên mặt nước, với niềm tin rằng đó là điềm lành báo hiệu việc sinh con thuận lợi, mẹ tròn con vuông.[18]

Phong tục cầu con trong lễ Thất Tịch không chỉ phản ánh niềm tin tín ngưỡng vào sự sinh trưởng tự nhiên, mà còn là biểu tượng cho vòng tuần hoàn của nhân duyên, phúc đức và sự sống trong văn hóa phương Đông.

  • Tích trữ nước Thất Tịch

Từ xa xưa, dân gian Trung Hoa lưu truyền rằng nước Thất Tịch là thứ nước mang linh khí của trời đất, có công năng kỳ diệu để lâu cũng không hỏng, có thể chữa bỏng, trừ độc, giải tà khí và kéo dài tuổi thọ. Tại các vùng như Quảng Đông, Quảng Tây, đến sáng sớm mùng bảy tháng Bảy, ngay sau tiếng gà gáy đầu tiên, người dân đều rủ nhau ra giếng, suối hoặc bờ sông để lấy nước. Theo truyền thuyết, tiên nữ trên trời vào đêm ấy sẽ hạ phàm tắm gội, vì thế nước trong thiên hạ đều nhiễm linh khí của tiên giới. Ai lấy được nước ấy đem về cất giữ trong vò mới sẽ có phúc lộc, an khang, dùng để uống hay rửa mặt đều mang lại may mắn và sức khỏe. Đặc biệt, vào đêm Thất Tịch, người ta còn hái bảy loại hoa tươi, thường là hoa mễ lan, hoa nhài, hoa hồng cùng các loài hoa mùa hạ khác đem ngâm vào nước giếng mới múc, tạo thành “nước hoa bảy sắc” (七色花水). Phụ nữ dùng thứ nước này để rửa mặt, gội đầu với niềm tin rằng nó sẽ giúp dung mạo thêm tươi tắn, làn da thêm mịn màng và được trời đất ban phúc về sắc đẹp cùng nhân duyên.[19]

  • Lễ bái sao Khôi

Ngôi sao đầu tiên trong chòm Bắc Đẩu Thất Tinh gọi là sao Khôi, còn gọi là Khôi Thủ. Khôi Tinh cũng là vị thần trong thần thoại Trung Quốc cổ đại, được cho là cai quản sự thịnh suy của văn chương. Với các nho sinh xưa, Khôi Tinh có địa vị tối cao, tục truyền rằng ngày mùng bảy tháng Bảy là sinh nhật của Khôi Tinh những người đọc sách cầu công danh vào ngày Thất Tịch thường cúng bái, cầu ngài phù hộ cho thi cử hanh thông. Thời xưa, khi sĩ tử đỗ Trạng Nguyên được gọi là Đại Khôi thiên hạ sĩ hoặc Nhất cử đoạt Khôi, đều bởi vì sao Khôi chủ việc thi cử. Vùng Mân Đông, người đọc sách rất sùng kính sao Khôi, vào ngày Thất Tịch lại càng có tục lệ bái Khôi Tinh.[20]

  • Lễ bái Mẹ Giường (Sàng Mẫu)

Trong tín ngưỡng dân gian Đài Loan, vào ngày Thất Tịch bên cạnh nghi lễ cúng Thất Nương Mẫu, người ta còn cúng Sàng Mẫu (床母), tức Mẹ Giường, vị nữ thần bảo hộ cho phụ nữ và trẻ nhỏ. Theo quan niệm dân gian, Sàng Mẫu là nữ thần cai quản giấc ngủ và sức khỏe của trẻ nhỏ, đồng thời là vị thần che chở cho sản phụ, giúp mẹ tròn con vuông. Ngày mùng bảy tháng Bảy cũng là ngày sinh của Sàng Mẫu, vì thế các gia đình có con nhỏ đều chuẩn bị lễ cúng để tạ ơn và cầu phúc. Lễ vật dâng cúng vô cùng giản dị như một bát cơm dầu nhỏ, rượu gà (hoặc gà nấu với dầu mè), cùng Tiền Tứ Phương và Áo Sàng Mẫu. Lễ thường được cử hành vào buổi chiều tối, ngay bên cạnh giường ngủ của đứa trẻ để Sàng Mẫu ngự để canh giấc cho con. Sau khi bày lễ và thắp hương, người chủ lễ chỉ cần đốt Tiền Tứ Phương và Áo Sàng Mẫu, cầu xin Mẹ Giường phù hộ cho trẻ ăn ngoan, ngủ yên, chóng lớn, khỏe mạnh, rồi dọn lễ. Dân gian còn lưu truyền rằng nếu cúng quá lâu, Sàng Mẫu sẽ nuông chiều khiến trẻ lười dậy, nên lễ cần ngắn gọn, thành tâm là đủ.[21]

Lễ bái Sàng Mẫu không chỉ phản ánh niềm tin vào sự bảo hộ siêu nhiên mà còn là sự tôn vinh thiên chức làm mẹ, là lời cầu mong giản dị nhưng sâu sắc của con người về một mái ấm tràn đầy tình thương và sinh khí. Trong không khí đêm Thất Tịch, ánh hương lan tỏa nơi phòng ngủ trẻ thơ, lễ bái Mẹ Giường như một lời ru thiêng liêng, gửi gắm ước vọng bình an và phúc lành nối tiếp qua muôn đời.

Một số món ăn trong ngày Thất Tịch

  • Bánh khéo

Trong số các món ăn ngày Thất Tịch dùng để cầu khéo, thì bánh khéo là nổi tiếng nhất. Bánh cầu khéo có rất nhiều kiểu dáng, nguyên liệu chính là dầu, bột mì, đường và mật. Vào đêm Thất Tịch, người ta mang bánh cầu khéo ra sân, cả nhà quây quần ngồi lại cùng nhau thưởng thức tài nghệ làm bánh của người trong nhà. Hiện nay tập tục này không còn phổ biến ở nhiều nơi, bánh cầu khéo món ăn truyền thống ấy cũng đã biến đổi thành nhiều loại bánh ngọt đa dạng về hình thức.[22]

Screenshot 1761894927

(Ảnh: Baidu)

  • Kẹo giòn

Ngày xưa, tại một số tiệm bánh ở Trung Quốc, vào ngày này người ta làm loại kẹo giòn gọi là “Xảo nhân” hay “Xảo tô”. Loại kẹo này được làm từ: Đường cát, dầu ngô, muối, hạt mè đen rang, nước, đậu phộng rang, siro ngô,… Dân gian và các thiếu nữ tin rằng ai ăn loại kẹo giòn này sẽ trở nên khéo léo và tinh tế.[23] 

                                              Screenshot 1762138423   (Ảnh: Baidu)

  • Ăn bánh chẻo (sủi cảo)

Tại Sơn Đông (Trung Quốc), vào ngày này người ta ăn món bánh chẻo với một tục lệ cầu khéo rất thú vị, bảy cô gái thân thiết cùng góp gạo, rau để gói bánh chẻo, trong đó gói riêng một chiếc có đồng xu, một chiếc có kim, một chiếc có táo đỏ. Sau lễ cầu khéo, họ cùng ngồi ăn bánh chẻo; tương truyền rằng ai ăn được chiếc bánh có đồng xu thì có phúc, ăn được chiếc bánh có kim thì khéo tay, ăn được chiếc bánh có táo thì sẽ sớm kết hôn.[24]

  • Dâng dưa

Tại Phúc Kiến, vào dịp Thất Tịch, người ta dâng quả dưa để Chức Nữ thưởng thức và cầu mong nàng phù hộ mùa sau trái cây bội thu. Lễ vật bao gồm trà, rượu, trái dưa. Quả dưa sẽ được tạc thành những hình hoa lạ chim kỳ, hoặc khắc nổi hoa văn trên vỏ; loại dưa quả này được gọi là “hoa qua” (dưa hoa).[25]

Screenshot 1761895507

(Ảnh: Baidu)

Ảnh hưởng của lễ Thất Tịch trong không gian văn hóa đồng văn

Lễ Thất Tịch, tuy có nguồn gốc từ Trung Hoa cổ đại, nhưng sức lan tỏa đã vượt ra khỏi biên giới quốc gia, trở thành một hiện tượng văn hóa chung trong không gian văn hóa đồng văn Đông Á. Do chịu ảnh hưởng sâu sắc từ hệ tư tưởng và nghi lễ của văn hóa Trung Hoa, nhiều quốc gia như Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam đều tiếp nhận, cải biến và hình thành nên các hình thức cử hành lễ Thất Tịch mang bản sắc riêng.

Nhật Bản

Theo ghi chép của Bỉ Thục Mẫn trong Thiên Đường Lam Sắc, lễ Thất Tịch được truyền nhập vào Nhật Bản từ Trung Hoa cổ đại, ban đầu là một nghi lễ tế tự dành cho giới quý tộc cung đình, được gọi là “Khất Xảo Điện”. Lễ hội này du nhập vào thời kỳ Nara[26], khi văn hóa Trung Hoa có ảnh hưởng sâu rộng đến Nhật Bản. Từ thời Edo[27] trở đi, lễ Thất Tịch dần thoát khỏi khuôn khổ hoàng triều để trở thành một lễ hội dân gian phổ biến.

Sau cuộc Duy Tân Minh Trị, do thay đổi lịch pháp, thời gian tổ chức lễ Thất Tịch tại Nhật Bản được ấn định vào ngày 7 tháng 7 dương lịch. Tuy nhiên, tại một số địa phương như vùng Đông Nhật Bản, Hokkaido hay Sendai, lễ hội vẫn được tổ chức vào ngày 7 tháng 8 dương lịch – tương đương với ngày 7 tháng 7 âm lịch của Trung Hoa cổ. Hiện nay, Thất Tịch đã trở thành một trong những lễ hội mùa hè quan trọng của Nhật Bản. Vào dịp này, người dân từ người lớn đến trẻ nhỏ đều viết điều ước, thơ ca lên những dải giấy màu (tanzaku) rồi treo trên cành tre nhỏ đặt trong sân nhà. Họ còn bày lễ vật gồm ngô, lê và các món ăn truyền thống, cầu xin sao Chức Nữ ban phúc, phù hộ cho tài nghệ như thư pháp hay may vá được tinh tiến.[28]

Hàn Quốc

Theo Thôi Nam Thiện trong tác phẩm Triều Tiên thường thức, lễ Thất Tịch ở Hàn Quốc cũng bắt nguồn từ Trung Hoa, được tổ chức vào ngày 7 tháng 7 âm lịch. Tuy nhiên, khác với Nhật Bản, Thất Tịch tại Hàn Quốc không được tổ chức rầm rộ mà mang tính chất tín ngưỡng, gia đình hơn. Trong ngày này, phụ nữ Hàn Quốc thường tiến hành nghi lễ “khất khiếu” (cầu nguyện cho sự khéo léo, linh hoạt và đảm đang) trong nữ công. Ngoài ra, hoạt động tế lễ cũng đóng vai trò quan trọng. Người dân chuẩn bị các loại bánh ngọt, đặt vào chum tương hoặc bên giếng nước mới múc, để cầu mong gia đạo bình an, mùa màng tốt tươi và cuộc sống sung túc. Như vậy, dù tiếp thu từ Trung Hoa, lễ Thất Tịch tại Hàn Quốc đã được điều chỉnh cho phù hợp với quan niệm sống, nhấn mạnh đức tính nội trợ và tinh thần hòa hợp gia đình của người phụ nữ truyền thống.[29]

Thất Tịch tại Việt Nam: Từ nghi lễ cung đình đến tín ngưỡng dân gian

Lễ Thất Tịch (Mùng 7 tháng Bảy Âm lịch) ở Việt Nam mang một sắc thái đặc biệt, không phổ biến rộng rãi như các lễ hội truyền thống lớn, nhưng lại có chiều sâu lịch sử và sự biến đổi rõ rệt qua các thời kỳ. Từ chỗ là một nghi lễ cung đình quan trọng, Thất Tịch ngày nay được bản địa hóa thành một tập tục dân gian lãng mạn, phản ánh rõ nét sự giao thoa và tiếp biến văn hóa.

Tên gọi và ý nghĩa dân gian: “Ngày Ông Ngâu Bà Ngâu”

Trong đời sống văn hóa dân gian Việt Nam, lễ Thất Tịch (mùng bảy tháng bảy âm lịch) được bản địa hóa và biết đến với cái tên thân thuộc là “Ngày ông Ngâu bà Ngâu”. Tên gọi này được Việt hóa từ truyền thuyết Ngưu Lang – Chức Nữ thành một hiện tượng thiên nhiên quen thuộc là mưa ngâu. Hiện tượng những cơn mưa ngâu thường xuất hiện vào tháng bảy âm lịch được người dân xem là giọt nước mắt sum họp và chia ly của cặp đôi Ngưu Lang – Chức Nữ, thông qua việc lồng ghép yếu tố thần thoại Trung Hoa và điều kiện khí hậu thực tế tại nước ta. Tuy nhiên, dù cốt truyện Ngưu Lang – Chức Nữ được phổ biến rộng rãi, các nghi lễ cúng bái Thất Tịch truyền thống lại không phổ biến trong tín ngưỡng dân gian của người Việt mà chủ yếu được duy trì trong cộng đồng người Hoa.

Mối liên hệ giữa lễ Thất Tịch và hiện tượng tự nhiên là một minh chứng rõ ràng cho tính bản địa hóa của văn hóa Việt Nam. Chuyển hóa một thần thoại Trung Hoa thành một phần của ký ức mùa vụ và dự báo thời tiết dân gian thân thuộc. Việc Việt hóa câu câu chuyện thần thoại này thành ngày “ông Ngâu bà Ngâu” đã khiến câu chuyện trở nên gần gũi với người Việt, dân gian không chỉ tiếp xúc câu chuyện qua lời kể mà còn trực tiếp chứng kiến bằng mắt thường qua những hạt mưa tháng bảy. Chính sự kết hợp giữa thiên nhiên và câu chuyện tình cảm lãng mạn này đã khiến Thất Tịch ở Việt Nam nghiêng về giá trị tinh thần và biểu tượng hơn là sự thực hành các nghi lễ cúng bái truyền thống phức tạp như ở Trung Quốc.

Vị trí của Thất Tịch trong các nghi lễ cung đình

Do các nguồn sử liệu nước ta thời Hậu Lê trở về trước còn hạn chế nên người soạn hiện chỉ có thể tra cứu các nguồn sử liệu học và điển lệ triều Nguyễn.

Cuốn Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức được viết vào cuối những năm Gia Long, đầu thời Minh Mạng chép: “Các tiết Đoan Dương, Thất Tịch, Trung Thu và Trùng Cửu, nhiều chỗ theo chế độ Trung Hoa.”[30] Qua đó, có thể thấy các tiết lễ lớn như Đoan Dương, Thất Tịch, Trung Thu và Trùng Cửu là học theo người Trung Hoa.

Trong Đại Nam thực lục chép: “Lại gặp tiết mùa hè, mà các hoàng thân hằng phải xông pha nắng gió để làm lễ, vua riêng có lòng thì tất nghĩ đến, nhân chuẩn cho từ sau trở đi kính gặp các tiết lễ thường ở điện Gia Thành, điện Sùng Ân (như các tiết Chính Đán, Đoan Dương, Tam Nguyên, Thất Tịch, Trung Thu, Trùng Dương, Đông Chí, Tuế Trừ, Trừ Tịch, năm lễ hương, hàng tháng ngày Sóc ngày Vọng tiến lễ) thì chiếu y như lễ ở điện Minh Thành, đều do các chức quan thủ hộ người họ Tôn thất chia nhau đến làm lễ, hoàng thân miễn phải sung phái đi làm lễ.”[31]

Năm Minh Mạng thứ 11 (1830), Khâm định Đại Nam hội điển sử lệ chép: “Năm thứ 11, chuẩn lời nghị: tinh giảm các lễ: ngày mồng ba tết Nguyên Đán, tết Đoan Dương, tết Thượng Tiêu, tết Trừ Tịch.”[32]

Năm Thiệu Trị thứ 6 (1846), Khâm định Đại Nam hội điển sử lệ chép: “Lại cỗ ngự yến, 3 tiết lớn là Vạn Thọ, Chính Đán, Đoan Dương mỗi ngày tiền 15 quan, các tiết lập xuân, Nhân Nhật, Nguyên Tiêu, Trung Hòa, Phương Triều, Thượng Tỵ, Thiên Huống, Thất Tịch, Trung Nguyên, Trung Thu, Trùng Dương, Hạ Nguyên, Đông Chí trừ tiền mỗi ngày đều 10 quan tiền.”[33]

Năm thứ 2 thời vua Tự Đức (1849), sách Khâm định Đại Nam hội điển sử lệ tập 6 chép: “Năm thứ 2, nghị chuẩn: Hàng năm ngày 3 tiết Chính Đán ở điện Long An, các lễ và các tiết Đoan Dương, Đông Chí, Tam Nguyên, Thất Tịch, Trung Thu, Trùng Dương, Tuế Trừ, Trừ Tịch, 2 lễ hương tế cấp về mùa xuân, và Sóc Vọng hàng tháng, mỗi lễ chọn phái 1 hoàng thân công phụng sung làm lễ.”[34]

Cũng năm này, Khâm định Đại Nam hội điển sử lệ tập 7 chép: “Theo nghị chuẩn cho: ở điện Sùng Ân, hàng năm tiết Chính Đán làm thêm đồ mã mũ, đai áo xiêm bằng giấy và các hạng vàng bạc, tiền giấy, kho giấy, tiết Nhị Nguyên đều dùng 1 mâm cỗ, duy tiết Trung Nguyên có đồ mã mũ đai áo xiêm bằng giấy và các hạng vàng bạc tiền giấy, kho giấy; tiết Trừ Tịch dùng 1 mâm trà, quả; các lễ tiết Thất Tịch, Trung Thu, Trùng Dương, đều dùng trà, quả phẩm vật quý, duy tiết Trung Thu thì thêm 1 mâm cỗ; Sóc Vọng hàng tháng và ngày tế xuân hưởng hàng năm, mỗi lễ bằng 1 mâm cỗ.”[35]

Dù khá mờ nhạt trong văn hóa dân gian nhưng các bộ sử liệu của triều Nguyễn, điển hình là Đại Nam thực lục và Khâm định Đại Nam hội điển sử lệ, đã khẳng định vững chắc vị thế của Thất Tịch trong hệ thống lễ tiết cung đình. Nghi lễ này không chỉ được quy định rõ ràng mà còn được duy trì một cách nhất quán qua nhiều đời vua. Bằng chứng là Thất Tịch được tổ chức tại các điện thờ trọng yếu như Gia Thành, Sùng Ân và Long An. Tầm quan trọng của lễ Thất Tịch cũng được thể hiện qua việc nó không nằm trong danh sách các lễ bị tinh giảm vào năm Minh Mạng thứ 11 (1830). Về mặt vật chất, nghi lễ này được xếp ngang hàng với Trung Thu và Trùng Dương, đòi hỏi trà, quả phẩm vật quý và được cấp 10 quan tiền cho tiệc ngự yến thời Thiệu Trị. Về mặt tổ chức, triều đình thể hiện sự linh hoạt khi miễn việc hoàng thân xông pha nắng gió bằng cách ủy quyền cho các chức quan thủ hộ người Tôn thất, nhưng vẫn đảm bảo sự tôn nghiêm bằng cách chọn cử hoàng thân công phụng làm lễ (thời Tự Đức). Qua đó có thể thấy, đối với các nghi thức cung đình triều Nguyễn, Thất Tịch là một tiết lễ cần thiết mang tính truyền thống và chính thống, đòi hỏi sự sắp đặt chu đáo, duy trì sự trang trọng mà không gây gánh nặng quá mức cho giới hoàng tộc.

Lễ Thất Tịch hiện đại và xu hướng lãng mạn hóa 

Ngày nay, lễ Thất Tịch đã mất đi vai trò cung đình nhưng lại được giới trẻ tiếp nhận và biến đổi theo hướng lãng mạn hóa thông qua tập tục mới. Người Việt hiện đại tin rằng việc ăn chè đậu đỏ vào ngày này có thể mang lại duyên lành cho người độc thân và sự bền chặt cho các cặp đôi.  Tuy mức độ phổ biến của lễ Thất Tịch tại Việt Nam không bằng Trung Quốc hay Nhật Bản, song lễ Thất Tịch tại Việt Nam vẫn phản ánh sự giao lưu văn hóa bền chặt trong khu vực, đồng thời thể hiện khả năng bản địa hóa của văn hóa Việt trong việc tiếp thu, biến đổi các giá trị văn hóa ngoại lai để hòa nhập và phù hợp với bản sắc dân tộc.

Tổng kết

Lễ Thất Tịch không chỉ là một ngày hội dân gian mà còn là một di sản văn hóa mang tính biểu tượng của văn minh Trung Hoa cổ đại. Trải qua hàng nghìn năm, lễ hội này đã vượt khỏi phạm vi một nghi thức tín ngưỡng để trở thành một hiện tượng văn hóa – xã hội, phản ánh mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên, giữa giới tính và xã hội, giữa xúc cảm cá nhân với lợi ích cộng đồng.

Về thiên văn học và lịch pháp cổ truyền, nguồn gốc của lễ Thất Tịch gắn liền với sự quan sát tinh tượng của người xưa, đặc biệt là hiện tượng xuất hiện của hai chòm sao Khiên Ngưu (Altair) và Chức Nữ (Vega) nằm ở hai bên bờ của dải Ngân Hà. Việc chọn ngày mùng bảy tháng bảy âm lịch là Thất Tịch cho thấy trình độ nhận thức sớm của người Trung Hoa cổ đại về quy luật vận hành của vũ trụ, cũng như năng lực kết hợp thiên văn học với tín ngưỡng dân gian. Từ đó, lễ Thất Tịch không chỉ là sản phẩm của cảm hứng văn học, mà còn là minh chứng sinh động cho tư tưởng “thiên nhân hợp nhất” (con người và vũ trụ cùng hòa làm một nhịp sinh tồn).

Về phương diện văn hóa – xã hội, lễ Thất Tịch được xem như một ngày hội đặc thù dành cho nữ giới trong xã hội cổ đại Trung Hoa, bày tỏ khát vọng về sự khéo léo, thông tuệ và may mắn trong cuộc sống gia đình. Thông qua những nghi lễ và phong tục mang đậm sắc thái nữ công như Khất xảo, vai trò và vị thế của người phụ nữ trong khuôn mẫu đạo đức mà xã hội truyền thống đặt lên họ cũng được khẳng định. Đây cũng là biểu hiện ý thức tự khẳng định của nữ giới về năng lực, phẩm hạnh và khát vọng được công nhận trong xã hội xưa. Từ góc nhìn nghiên cứu học thuật, lễ hội này mang giá trị đặc biệt trong việc khảo cứu lịch sử giới tính, văn hóa nữ công và sự hình thành bản sắc nữ giới trong tiến trình văn hóa Trung Hoa cổ truyền.

Về phương diện văn hóa tinh thần, truyền thuyết Ngưu Lang – Chức Nữ là yếu tố linh hồn của lễ Thất Tịch. Câu chuyện về mối tình giữa người phàm và tiên nữ vượt qua sự ngăn cách của thiên giới không chỉ mang màu sắc lãng mạn, mà còn hàm chứa lý tưởng đạo đức về lòng chung thủy, sự kiên định và khát vọng đoàn tụ.

Bên cạnh giá trị tình cảm, lễ Thất Tịch còn phản ánh triết lý nhân sinh coi trọng tình nghĩa gia đình, đề cao đức cần cù và phẩm hạnh hiền hậu; những giá trị đạo lý cơ bản được duy trì và truyền thừa trong suốt tiến trình phát triển của văn hóa Trung Hoa. Chính vì vậy, trong bối cảnh hiện đại, lễ Thất Tịch vẫn giữ được sức sống bền vững, trở thành cầu nối giữa truyền thống và hiện đại.

Chú thích

[1] 邓启耀,杜新燕主编,中国西部民族文化通志,云南人民出版社,2018,第86页.

[2] Kinh Thi ở đây chỉ khoảng thời gian từ đầu thời Tây Chu (Thế kỷ 11 – 771 TCN) đến giữa thời Xuân Thu (770 – 476 TCN).

[3] 【网络中国节·七夕】七夕的起源与风俗,https://mp.weixin.qq.com/s?__biz=MzIzNDEzNTcyNA==&mid=2648930037&idx=5&sn=381cd5f924e00a2756cdad9b8f8108ca&chksm=f1a3168a173de5bde4903c18342ebc1f3d556a89fc63e65e2763be08eb7d83930ba66ae0e026&scene=27

[4] 《诗经》小雅·谷风之什·大东_原文带拼音解释

[5] 【网络中国节·七夕】七夕的起源与风俗, 05/08/2024.

[6] 《礼记》·月令,  https://guoxue.httpcn.com/html/book/TBMEUYKO/TBMERN.shtml

[7] 网络中国节·七夕丨七夕的传统风俗,你知道几个?

[8]【网络中国节·七夕】七夕的起源与风俗, 05/08/2024.

[9] 七夕穿针开襟楼- 《西京杂记》

[10] 宗懔, 荆楚岁时记, https://guoxue.httpcn.com/html/book/TBUYAZ/ILRNPWKOUY.shtml

[11] 七夕节的由来、习俗、传说故事_汉程民俗

[12] 七夕节的由来、习俗、传说故事_汉程民俗

[13] 刘侗, 帝京景物略, 卷二, dushu.com/guoxue/108367/1169373.html

[14] 七夕节的由来、习俗、传说故事_汉程民俗

[15] 七夕:“爱情节”的乞巧文化, 凤凰网, 引用日期 26/07/2019.

[16] 广西的七夕都有哪些民俗, 中国文明网, 18/08/2018.

[17] 七夕习俗——种生求子, 新浪新闻, 23/08/2020.

[18] 七夕习俗——种生求子, 新浪新闻, 23/08/2020.

[19] 七夕,那些有趣的民间风俗, 北京旅游网综合, 08/08/2019

[20] 七夕源于人们对星宿的崇拜, 天津文明网, 30/07/2019.

[21] 七夕啦!各地那些有趣的民俗你知道多少?, 凤凰网, 17/03/2019.

[22] “七夕”佳节 趣味风俗知多少, 中国政府网 21/08/2018.

[23] “七夕节”已有2000多年 是世界上最早的爱情节日, 中国政府网 17/03/2019.

[24] “七夕节”已有2000多年 是世界上最早的爱情节日, 中国政府网 17/03/2019.

[25] “七夕节”已有2000多年 是世界上最早的爱情节日, 中国政府网 17/03/2019.

[26] Thời kỳ Nara (奈良時代) trong lịch sử Nhật Bản kéo dài từ năm 710 đến năm 794. Vào thời điểm này, Thiên hoàng Gemmei (元明天皇, Nguyên Minh Thiên Hoàng) quyết định đặt kinh đô tại Heijō-kyō (平城京) tức thành phố Nara ngày nay. Trong suốt hơn 80 năm tồn tại, Heijō-kyō là trung tâm chính trị, văn hóa và tôn giáo của Nhật Bản, ngoại trừ giai đoạn 740 – 745 kinh đô tạm thời được dời đến nơi khác. Đến năm 784, Thiên hoàng Kanmu (桓武天皇, Hoàn Vũ Thiên Hoàng) chuyển kinh đô đến Nagaoka-kyō (長岡京), rồi khoảng một thập niên sau, vào năm 794, dời tiếp đến Heian-kyō (平安京) tức Kyoto ngày nay, mở đầu cho thời kỳ Heian trong lịch sử Nhật Bản.

[27] Thời kỳ Edo (江戸時代) còn được gọi là thời kỳ Tokugawa (徳川時代), trong lịch sử Nhật Bản kéo dài từ năm 1603 đến năm 1868. Thời kỳ này bắt đầu khi Tokugawa Ieyasu được phong làm Chinh di Đại tướng quân và thành lập Mạc phủ Tokugawa tại Edo (nay là Tokyo) vào năm 1603, mở ra hơn 250 năm hòa bình và ổn định chính trị dưới quyền cai trị của dòng họ Tokugawa. Thời kỳ Edo kết thúc vào năm 1868, khi Tokugawa Yoshinobu, vị tướng quân thứ 15 và cũng là người cuối cùng của triều Tokugawa, thoái vị trong cuộc Duy Tân Minh Trị, sự kiện đánh dấu sự khôi phục quyền lực cho Thiên hoàng và bước chuyển sang thời kỳ cận đại của Nhật Bản.

[28] 外国人的“别样七夕” 不止是情人节, 手机新浪网, 14/08/2021.

[29] 外国人的“别样七夕” 不止是情人节, 手机新浪网, 14/08/2021.

[30] Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí, Nguyễn Tạo dịch, Phủ Quốc vụ khanh Đặc trách văn hóa, 1972, tr.

[31] Viện Sử học, Đại Nam thực lục, tập 27, Nxb Khoa học xã hội, 1976, tr. 78.

[32] Nội Các triều Nguyễn, Khâm định Đại Nam hội điển sử lệ, tập 6, Nxb Thuận Hóa, 1993, tr. 484.

[33] Nội Các triều Nguyễn, Khâm định Đại Nam hội điển sử lệ, tập 5, Nxb Thuận Hóa, 1993, tr. 145.

[34] Nội Các triều Nguyễn, Khâm định Đại Nam hội điển sử lệ, tập 6, Nxb Thuận Hóa, 1993, tr. 399.

[35] Nội Các triều Nguyễn, Khâm định Đại Nam hội điển sử lệ, tập 7, Nxb Thuận Hóa, 1993, tr. 16.

Tài liệu tham khảo

Tài liệu tiếng Việt

  1. Trịnh Hoài Đức (1972), Gia Định thành thông chí, Nguyễn Tạo dịch, Phủ Quốc Vụ Khanh Đặc trách Văn hóa ấn bản.
  2. Nội Các triều Nguyễn (1993), Khâm định Đại Nam hội điển sử lệ, tập 5, Nxb Thuận Hóa.
  3. Nội Các triều Nguyễn (1993), Khâm định Đại Nam hội điển sử lệ, tập 6, Nxb Thuận Hóa.
  4. Nội Các triều Nguyễn (1993), Khâm định Đại Nam hội điển sử lệ, tập 7, Nxb Thuận Hóa.
  5. Viện Sử học (1976), Đại Nam thực lục, tập 27, Nxb Khoa học xã hội

Tài liệu chữ Hán

  1. 邓启耀,杜新燕主编,中国西部民族文化通志,云南人民出版社,2018,第86页.
  2. 【网络中国节七夕】七夕的起源与风俗,https://mp.weixin.qq.com/s?__biz=MzIzNDEzNTcyNA==&mid=2648930037&idx=5&sn=381cd5f924e00a2756cdad9b8f8108ca&chksm=f1a3168a173de5bde4903c18342ebc1f3d556a89fc63e65e2763be08eb7d83930ba66ae0e026&scene=27
  3. 《诗经》小雅·谷风之什·大东_原文带拼音解释
  4. 网络中国节七夕】七夕的起源与风俗, 05/08/2024.
  5. 《礼记》月令, https://guoxue.httpcn.com/html/book/TBMEUYKO/TBMERN.shtml
  6. 网络中国节·七夕丨七夕的传统风俗,你知道几个?
  7. 七夕穿针开襟楼- 《西京杂记》
  8. 宗懔, 荆楚岁时记, https://guoxue.httpcn.com/html/book/TBUYAZ/ILRNPWKOUY.shtml
  9. 七夕节的由来、习俗、传说故事_汉程民俗
  10. 刘侗, 帝京景物略, 卷二, com/guoxue/108367/1169373.html
  11. 七夕:“爱情节”的乞巧文化, 凤凰网, 引用日期 26/07/2019.
  12. 广西的七夕都有哪些民俗, 中国文明网, 18/08/2018.
  13. 七夕习俗——种生求子, 新浪新闻, 23/08/2020.
  14. 七夕源于人们对星宿的崇拜, 天津文明网, 30/07/2019.
  15. “七夕节”已有2000多年 是世界上最早的爱情节日, 中国政府网 17/03/2019.
  16. “七夕”佳节 趣味风俗知多少, 中国政府网 21/08/2018.
  17. 外国人的“别样七夕” 不止是情人节, 手机新浪网, 14/08/2021.

ShareTweet

Để lại một bình luận Hủy

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *


No Result
View All Result
  • Nghi lễ vòng đời
    • Hôn lễ
    • Sinh con
    • Động thổ làm nhà
    • Mừng thọ và sinh nhật
    • Tang ma
    • Ngày giỗ
  • Nghi lễ hàng năm
    • Dịp Tết Nguyên Đán 1/1
    • Dâng sao giải hạn 15/1
    • Nguyên tiêu 15/1
    • Tết Thanh minh 3/3
    • Tết Hàn thực 3/3
    • Tết Đoan ngọ 5/5
    • Lễ Thất Tịch 7/7
    • Lễ Vu Lan 15/7
    • Tết Trung Nguyên 15/7
    • Tết Trung thu 15/8
    • Tết Trùng Cửu 9/9
    • Tết Cơm mới (10-15/10)
    • Tết Táo Quân 23/12
    • Ngày mùng 1 hàng tháng
    • Ngày rằm hàng tháng
  • Đặc trưng văn hóa Việt
    • Chữ và Nghĩa
    • Phong tục thờ cúng
    • Văn hóa giao tiếp
    • Món ăn truyền thống
    • Trò chơi dân gian
    • Trang phục truyền thống
    • Nghệ thuật truyền thống
    • Di sản văn hoá
    • Nền nếp sinh hoạt
  • Tôn giáo tín ngưỡng
    • Phật giáo
    • Công giáo
    • Thờ cúng tổ tiên
    • Thờ cúng tổ nghề
    • Tín ngưỡng thờ Thần
    • Tín ngưỡng thờ Mẫu
    • Tôn giáo khác

© 2021 cophong.vn