Xét về nghĩa chữ vị 未 trong từ điển Hán Việt Thiều Chửu, có cả thảy 5 nghĩa được ghi nhận:
① Chi vị, chi thứ tám trong 12 chi. Ví dụ: Từ một giờ chiều đến ba giờ chiều gọi là giờ vị. Thường quen đọc là chữ mùi.
② Chưa. Ví dụ: vị lai 未來 chưa lại, chưa tới.
③ Chưa, dùng làm trợ từ. Ví dụ: hàn mai trước hoa vị 寒梅著花未 mơ đã nở hoa chưa? (Vương Duy).
④ Không.
⑤ Lời nói chưa mang tính xác quyết. Ví dụ: vị khả tri dã 未可知也 chưa thể biết được.
Từ điển Hán Việt Trần Văn Chánh cũng liệt kê năm nghĩa tương ứng của chữ này:
① Chưa, không, vị
② Chưa, đã… chưa? (dùng để hỏi)
③ (văn) Chưa tới (đặt trước số từ hoặc từ ngữ nói về tuổi tác): 未三十,便用爲荊州治中 Chưa đến ba mươi tuổi, được dùng làm chức trị trung ở Kinh Châu (Thế thuyết tân ngữ: Văn học);
④ (văn) Không (dùng như 不): 未可 Không thể được
⑤ Mùi (ngôi thứ 8 trong 12 địa chi): 未時 Giờ mùi (từ 1 đến 3 giờ chiều).
Trang 1114 Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học do GS Hoàng Phê chủ biên, Nxb Đà Nẵng ấn hành năm 2003 định nghĩa rằng:
- Vị hôn phu (danh từ): Chồng chưa cưới
- Vị hôn thê (danh từ): Vợ chưa cưới.
Cũng trong trang 1114, Từ điển tiếng Việt liệt kê 4 nghĩa riêng biệt của từ “vị” bao gồm
- (danh từ) Từ dùng để chỉ từng người có danh hiệu hoặc chức vị với ý tôn kính.
- (danh từ) Dạ dày (theo cách gọi trong đông y)
- (danh từ) 1. Thuộc tính của sự vật nhân viết được bằng lưỡi. 2. Từ dùng để chỉ từng loại dược liệu dùng trong thang thuốc đông y.
- (cũ, kết hợp hạn chế) vì
Song không có nghĩa “chưa tới”.
Ngược lại, trong cùng trang đó, từ điển định nghĩa rõ từ “vị thành niên” – một trường hợp có cấu trúc tương tự với “vị hôn phu” và “vị hôn thê” – như sau: “chưa đến tuổi được pháp luật công nhận là công dân với đầy đủ quyền và nghĩa vụ”. Điều này cho thấy tính nhất quán trong ý nghĩa “chưa” của từ “vị” ở cả ba trường hợp là “vị thành niên”, “vị hôn phu”, “vị hôn thê”.
Từ những dữ liệu trên, có thể khẳng định rằng chữ “vị” trong “vị hôn phu”, “vị hôn thê” mang nghĩa “chưa đến” hoặc “chưa hoàn tất”. Do đó, nếu lược bỏ từ “vị”, nghĩa của cụm từ sẽ sai lệch, mất đi sắc thái ngữ nghĩa quan trọng – cụ thể ở đây là trạng thái “chưa chính thức trở thành vợ chồng”.
Trong văn học, sự phân biệt này càng rõ ràng hơn. Chẳng hạn, trong truyện ngắn Vị hôn thê của Anton Chekhov (bản dịch tiếng Việt), với nhân vật chính là cô gái trẻ Nadya khao khát rời khỏi cuộc sống hôn nhân không tình yêu để theo học đại học. Tiêu đề Vị hôn thê khẳng định một khái niệm khác biệt hoàn toàn với ý niệm “bạn trai” – một bên là cam kết hôn nhân, một bên chỉ là tình cảm cá nhân.
Hay như trong tiểu thuyết Đời mưa gió của Nhất Linh, Khái Hưng có viết: “Có lẽ Chương cho hoa và tranh là hình ảnh của mỹ nhân chăng? Hay cô Loan, vị hôn thê tàn nhẫn của chàng, khi xưa thích hoa và tranh?” [1]
Về mặt thực tiễn hiện nay, trong giao tiếp cũng như viết lách, nhiều người hiểu rằng từ “vị” dùng để chỉ một người nào đó chứ không còn mang ý nghĩa “chưa tới, chưa đến” nữa nên cách dùng “hôn thê” hoặc “hôn phu” để chỉ người đã đính hôn trở lên phổ biến.
Ví dụ, Báo Pháp luật Việt Nam đăng bài: “Trung vệ Bùi Tiến Dũng tặng hôn thê nhẫn kim cương trong lễ đính hôn” (2019), với nội dung: “Trước ngày lễ đính hôn, trung vệ Bùi Tiến Dũng đã chia sẻ hình ảnh chiếc nhẫn kim cương hoàn hảo với thông điệp ngọt ngào dành tặng hôn thê”. Trong một bài khác, cùng tờ báo này, cụm từ “hôn phu” được sử dụng trong tiêu đề: “Doanh nhân giàu có bị đồn là hôn phu của Hoa hậu Phạm Hương (2019)”, cho thấy tình trạng sử dụng đơn vị từ ghép Hán Việt không đầy đủ trong truyền thông hiện đại.
Những trường hợp lỗi sai này xuất hiện ngày càng nhiều, và ta không loại trừ khả năng từ ghép “hôn phu”, “hôn thê” sẽ được hợp thức hóa trong tiếng Việt để chỉ người nam, người nữ đã xác nhận đính hôn nhưng chưa cưới hỏi vào một ngày nào đó. Như trong bài “Chữ nghĩa: Vị hôn phu/Vị hôn thê” của Trần Huy Bích có liệt kê những trường hợp đã dùng các từ này dưới hình thức “Việt hóa” [2], thực tế, khi xóa bỏ chữ “vị”, ta đã thiếu hẳn tầng nghĩa “chưa chính thức thành hôn”, “chưa chính thức thành vợ chồng”.
Tựu trung lại, yếu tố “vị” trong các cụm từ “vị hôn phu”, “vị hôn thê” không chỉ đơn thuần là một phần cấu tạo ngữ pháp, mà còn đóng vai trò then chốt trong việc thể hiện rõ trạng thái “chưa hoàn tất” của hôn nhân. Việc bảo toàn đầy đủ cụm từ này không chỉ góp phần giữ gìn tính trang trọng, nghi lễ, mà còn giúp xác lập ranh giới rõ ràng giữa các giai đoạn quan hệ trong đời sống xã hội. Dẫu biết rằng xu hướng giản lược có thể đáp ứng nhu cầu biểu đạt nhanh gọn trong ngôn ngữ hiện đại, song trong những bối cảnh đòi hỏi độ chính xác cao như pháp lý, học thuật hay nghi lễ truyền thống, sự toàn vẹn về mặt ngữ nghĩa vẫn cần được ưu tiên và trân trọng.
Tác giả: Huyền Nguyễn
CHÚ THÍCH
[1] Khái Hưng – Nhất Linh, Đời mưa gió, ebook, tr. 6.
[2] Trần Huy Bích, “Chữ nghĩa: Vị hôn phu/Vị hôn thê” có viết:
“Theo quyển Tự ĐIỂN ANH VIỆT, CỤ NGUYỂN VĂN KHÔN:
– Hôn Phu: Bridegroom, Fiancé
– Hôn Thê: Bride, Financeé
– Goá Phụ: Widow
…
Tôi nghĩ rằng những từ này đã được “Việt hoá” và được dùng trong văn chương VN và trong nhân gian rất lâu. Ý nghiã cũng rất rõ ràng. Người Việt Nam khó có thể hiểu nhầm chữ “hôn” này như được dùng trong chữ “hôn quân”.”
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Trần Huy Bích (2021), “Chữ nghĩa: Vị hôn phu, vị hôn thê”, website nhinrabonphuong.blogspot.vn, năm 2021.
- Hoàng Phê (chủ biên) (2003), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, Hà Nội – Đà Nẵng.