Dẫn nhập: Lễ kị nhật hay còn gọi là ngày giỗ, là một nghi lễ truyền thống quan trọng trong đời sống tinh thần của người Việt Nam. Nghi lễ này được hình thành từ lâu đời, chịu ảnh hưởng của Nho giáo, xuyên suốt các triều đại phong kiến vẫn luôn duy trì lễ kị nhật cả trong dân gian và cung đình. Lễ kị nhật không chỉ diễn ra trong phạm vi hoàng tộc mà còn phổ biến trong dân gian, trở thành phong tục quen thuộc trong mọi gia đình, dòng họ. Về mặt lễ nghi trong dân gian có phần giản lược, song nghi chế cung đình quy định rất chặt chẽ. Từ vua quan cho đến dân thường, ai nấy đều coi trọng việc giỗ chạp như một biểu hiện của đạo hiếu và lòng trung nghĩa và tâm niệm “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc Việt Nam.
-
Từ nguyên
Kị nhật忌日 hay còn gọi là kị thần 忌辰 vốn là từ gốc Hán mang nhiều tầng nghĩa và biểu thị truyền thống “uống nước nhớ nguồn”; “ăn quả nhớ kẻ trồng cây” của các nước Á Đông.
Về mặt chiết tự chữ Hán cụm kị nhật 忌日 được ghép bởi từ kị 忌 và nhật 日. Kị 忌 gồm bộ tâm 心và chữ kỉ , từ kị có nghĩa là ghen ghét, như đố kị 妒忌 thấy người đẹp hơn mà tức thì gọi gọi là đố 妒, thấy người giỏi hơn mà tức gọi là kị 忌. Cũng có nghĩa là kiêng kị, tránh đi. Thuyết văn giải tự của Hứa Thận đời Hán giải thích chữ kị: “憎惡也- tăng ố dã” nghĩa là căm ghét, chán ghét vậy. Trong Địa quan 地官 phần Tụng huấn 誦訓 có đề cập: “掌道方慝,以詔辟忌。【註】不避其忌,則其方以爲苟于言語也。- Chưởng đạo phương thắc, dĩ chiếu tịch kị. Chú: Bất tỵ kỳ kị, tắc kỳ phương dĩ vi cẩu vu ngôn ngữ dã.” Nghĩa là người nắm giữ luật pháp thì phải tuyên cáo để tránh điều kiêng kị.” Chú: “Nếu không tránh điều kiêng kị thì người ấy sẽ bị coi là tùy tiện trong lời nói.” Chữ nhật日 có nghĩa là mặt trời, ban ngày. Như vậy kị nhật tức là căm ghét, chán ghét ngày đó. Vậy tại sao lại phải căm ghét, chán ghét ngày đó? Vì đó là ngày mà thân nhân qua đời. Thiều Chửu trong Hán Việt tự điển giải thích kị nhật là: “Ngày kị, ngày đứng thân chết gọi là kị. Phàm những ngày nào là ngày người trước mình chết đều gọi là kị, như ta gọi ngày giỗ là ngày kị là theo nghĩa ấy”[1].
Như vậy có thể hiểu kị nhật là ngày giỗ, là ngày con cháu tưởng nhớ ông bà tổ tiên nói chung. Ở các nước Á Đông trong đó có Việt Nam chúng ta, hiện nay vẫn còn giữ được ngày kị nhật (giỗ). Vào ngày này, con cháu họ hàng trong một nhà sẽ cúng lễ và thắp hương tưởng nhớ người đã mất. Mục đích của việc thắp hương và cúng lễ nhằm để tưởng nhớ tổ tiên, những người đã có công sinh thành và dưỡng dục.
-
Nguồn gốc kị nhật tại Trung Quốc
Phong tục ngày giỗ, hay còn gọi là kị nhật 忌日, là một nét văn hóa truyền thống lâu đời của người Trung Hoa, phản ánh sâu sắc tinh thần hiếu đạo và quan niệm về sự tưởng nhớ tổ tiên trong nền văn minh Á Đông. Theo ghi chép sớm nhất trong Lễ ký 禮記- thiên Tế nghĩa 祭義, có viết: “君子有終身之喪,忌日之謂也。- Quân tử hữu chung thân chi tang, kị nhật chi vị dã.” – Trịnh Huyền chú rằng: “忌日,親亡之日。- Kị nhật, thân vong chi nhật” nghĩa là người quân tử có tang suốt đời, gọi là kị nhật; kị nhật chính là ngày thân quyến qua đời. Điều này cho thấy từ rất sớm, người Trung Hoa đã xem việc tưởng niệm ngày mất của người thân là một bổn phận đạo đức, thể hiện lòng hiếu kính và sự tri ân đối với người có công sinh thành, dưỡng dục.
Trong Hậu Hán thư 後漢書 truyện Thân Đồ Bàn 申屠蟠傳, có chép: “九歲喪父,哀毀過禮……每忌日,輒三日不食。” Nghĩa là: Mất cha khi chín tuổi, thương khóc quá mức lễ nghi… mỗi khi đến ngày giỗ, ông nhịn ăn ba ngày. Câu chuyện này thể hiện mức độ thành kính và đau thương tột độ của con cái đối với cha mẹ, đồng thời cho thấy kị nhật không chỉ là một nghi lễ hình thức, mà còn là dịp để bày tỏ nỗi nhớ và lòng hiếu thuận sâu sắc.
Trong dân gian, việc cúng kị ngày giỗ thường gắn với nghi lễ tế tự, dâng hương, làm chay (tác trai). Tác phẩm Sơ khắc bác án kinh kỳ 初刻拍案惊奇 quyển 6 có ghi: “后二日我亡兄忌日,我便到院中来做斋- Hậu nhị nhật ngã vong huynh kị nhật, ngã tiện đáo viện trung lai tố trai.”Nghĩa là: Hai ngày sau là ngày giỗ của anh tôi, tôi liền đến chùa làm lễ trai. Việc “làm trai” (tức là làm lễ cúng chay) tại chùa thể hiện ảnh hưởng của Phật giáo trong phong tục kị nhật, khi người ta tin rằng việc cúng chay, làm phúc, tụng kinh cầu siêu cho người mất sẽ giúp linh hồn được siêu thoát.
Đến thời cận đại, nhà văn Lỗ Tấn 鲁迅 trong tác phẩm Chuẩn phong nguyệt đàm 準風月談·禮đã bàn: “事親當然要儘孝,但歿後的辦法,則已歸入祭禮中,各有儀,就是現在的拜忌日,做陰壽之類。” Nghĩa là phụng dưỡng cha mẹ khi còn sống dĩ nhiên phải tận hiếu; còn sau khi mất thì đã thuộc về lễ tế, có quy định rõ ràng như nay là bái kị nhật, làm âm thọ v.v. Như vậy, kị nhật không chỉ là một nghi lễ cá nhân trong gia đình mà còn được xã hội Trung Hoa xem như một phần trong hệ thống tế lễ.
Có thể thấy phong tục kị nhật của người Trung Hoa là sự kết hợp hài hòa giữa tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, quan niệm hiếu đạo Nho giáo và ảnh hưởng của Phật giáo, thể hiện sâu sắc mối liên kết giữa người sống và người đã khuất. Dù trải qua hàng ngàn năm, nghi lễ này vẫn giữ vị trí quan trọng trong đời sống tinh thần của người Trung Hoa, góp phần duy trì truyền thống “uống nước nhớ nguồn” và tôn vinh giá trị đạo đức gia đình trong xã hội.
-
Kị nhật tại nước ta
3.1. Kị nhật trong nghi lễ cung đình
3.1.1. Thời Lê
Việc làm lễ kị nhật (giỗ) ở nước ta từ sớm đã thấy đề cập song các tư liệu chủ yếu là chép về lễ giỗ trong dân gian, còn lễ kị nhật trong cung đình giai đoạn từ Lê sơ trở về trước hiện vẫn chưa khảo được. Về lễ kị nhật thời Lê Trung Hưng, Lịch triều hiến chương Loại chí ghi lại tương đối đầy đủ và chi tiết về lễ nghi và vật phẩm tế tự trong lễ kị nhật cung vua.
Mặt nghi lễ
Theo ghi chép của Loại chí về mặt trình tự lễ nghi trong lễ kị nhật tại cung vua Lê tương đối quy củ cụ thể: “Ngày kị nhật, các quan chấp sự [giữ việc lễ] vào buổi sáng sớm đều đến nhà Thái miếu trực sẵn. Vua đến điện Cảnh phục [thay áo]. Các quan chầu sỹ đều ra đứng chầu. Hai viên đông phong tán tay tán dụng nghiêm chỉnh ở hai bên nghi đạo. Khi thấy vua đến ngoài cửa, hai viên đông tán tây tán quay trước đến chầu. Đồng tán xướng: “tấu nghênh bái vị” (hai viên đều đứng dậy đi vào). Vua đến cửa chính yết, Điện lễ đông tán xướng: “tấu hành lễ”. Đồng tán xướng: “tấu cúc cung bái” (bốn lần). Tây tán xướng: “tấu hương” (bốn lần). Đông tán xướng: “tấu lễ tửu bái” (hai lần). Tây tán xướng: “tấu thuế cân, tấu nghi hương án tiền”. Điện lễ xướng: “thượng hương”. Hai người hầu thắp hương xong thì điện lễ đông tán xướng: “tấu bái tạ”. Tấu quy, tấu tam án hương, tấu phụ phúc.” Tây tán xướng: “tấu hạ hương”. Đông tán xướng: “tấu cúc cung bái” (hai lần). Tây tán xướng: “tấu bình thần” (hai lần). Đông tán xướng: “tấu bình thần” (2 lần). Điện lễ xướng: “làm lễ hiến tước”. Lúc đầu cử nhạc, chúc thư, rượu tuần rượu, mâm quả tiến”. Đông tán xướng: “tấu thượng án phụ phúc”. Tây tán xướng: “tấu hạ hương”. Tấu “tấu bình thần”. Đông tán xướng: “tuyên chế”. Đông tán xướng: “tấu quy”. Đọc chúc mừng, vua ra đứng phía trước án, làm lễ “hạ hương”. Đông tán xướng: “tấu bái” (2 lần). Tây tán xướng: “tấu hương” (2 lần). Đồng tán xướng: “tấu bình thần”. Điện lễ xướng: “hành hiến lễ”. (3) Làm như nghi tiết tuần trước. Lại xướng: “hành chung hiến lễ”, cũng làm như nghi tiết tuần trước”. Đông tán xướng: “bình thần”. Điển lễ xướng: “triệt soạn(1)” Điển lễ quỳ xuống xướng: “tấu thỉnh hoàn cung”(2). Đông tán xướng: “tấu phục bái vị, tấu cúc cung bái” (4 lần). Đông tán xướng: “tấu bình thần”. Điển lễ xướng: “phần chúc văn” (hai viên đông tây tán đều quỳ xuống đối điển nhau). Đông tán xướng: “tấu lễ tất”. (Nếu quan khâm mạng thay vua làm lễ, thì điển lễ xướng: “khâm mạng quan nghê bái vị”. Quan điển nghi quỳ xuống xướng: “tấu thỉnh nghi thần”(3), cúc cung bái, hưng, bình thần, nghê hương án tiến, thượng hương, phù phúc, hưng (2 bái), bình thần, hàn sơ hiến lễ, phù phúc, hưng, quy, tuyên chúc văn, phù phúc, hưng (2 bái), tuần 4 hiến và tuần chung hiến nghi tiết cũng như trước, bình thần, triệt soạn, tấu thỉnh hoàn cung, phục bái vị (4 bái), phần chúc văn, lễ tiến tiên thi nói: phần tấu cáo văn, lễ tất). [2]
Qua ghi chép trên có thể thấy lễ kị nhật tại cung vua Lê không chỉ mang tính hình thức tôn giáo mà còn là biểu tượng của quyền lực và lễ trị Nho giáo. Sự sắp đặt tỉ mỉ về thứ bậc (đông tán, tây tán, điển lễ, đồng tán…), cùng các lời xướng “tấu hành lễ”, “tấu cúc cung bái”, “tấu bình thần” phản ánh quan niệm lễ là nền tảng trị quốc của các triều đại phong kiến.
Về mặt lễ phẩm
Trong nghi lễ cung đình thời Lê Trung Hưng, lễ phẩm dâng cúng trong các ngày kị của các vua triều trước được quy định vô cùng tỉ mỉ và chặt chẽ. Đây không chỉ là hoạt động tế tự mang tính hiếu lễ, tưởng niệm tiên vương mà còn thể hiện đạo lý “trung – hiếu”, “tôn quân – kính tổ” cùng tinh thần lễ nghi đặc trưng của chế độ quân chủ Nho giáo. Theo Loại chí, trong một năm triều Lê có 28 ngày kị, mỗi ngày đều chuẩn bị đầy đủ lễ phẩm gồm tiền quý, gạo nếp, gạo tẻ, mắm muối và vật hiến tế. Thông thường, mỗi lễ kị tiêu tốn 12 quan tiền quý, 50 bát gạo nếp, 15 bát gạo tẻ, song có 5 kỳ trọng kị (như các ngày 21, 30 tháng Giêng; 13 tháng 4; 22, 24 tháng 8) được gia tăng lễ vật thêm 3 quan tiền quý cùng lượng gạo nhiều hơn. Việc chuẩn bị lễ vật được giao cho Lễ phiên và Hộ phiên phối hợp thực hiện, bảo đảm chu đáo và đúng quy thức. Đặc biệt, trong các lễ kị của những vị tiên đế như Thái Tổ Cao hoàng đế, Thái Tông Văn hoàng đế, Thánh Tông Thuần hoàng đế….quy mô tế lễ rất lớn: có nơi dâng hàng chục mâm cỗ chay và cỗ mặn, mỗi mâm gồm 50 bát; trâu, xôi, hương, rượu, vàng bạc đều được chuẩn bị đầy đủ. Với các vị hoàng đế khác, tùy theo phẩm trật và lệ định, lễ phẩm được giản lược hơn song vẫn giữ nguyên nghi thức kính trọng và thành kính tuyệt đối [3].
Qua quy định cụ thể về số lượng, thành phần và giá trị của lễ phẩm có thể thấy triều Lê rất coi trọng các nghi lễ tế tự hoàng gia, xem đó là biểu tượng cho sự chính thống và đạo đức trị quốc. Việc dâng cúng hậu hĩnh, phân định rõ cấp bậc giữa các vị tiên đế phản ánh quan niệm tôn ti nghiêm ngặt và lòng hiếu đạo của hoàng triều. Đồng thời, sự chuẩn mực của lễ phẩm cho thấy ý thức duy trì nghi lễ như một phần của nền văn hóa chính trị Nho giáo, góp phần củng cố quyền lực trung ương và gìn giữ truyền thống tôn kính tổ tiên trong đời sống cung đình..
3.1.2 Thời Nguyễn
Triều Nguyễn là một trong những triều đại nối tiếp triều Lê, các điển chương chế độ đều có sự kế thừa và tiếp tục được hoàn bị. Cũng giống như triều Lê, triều Nguyễn vẫn thực hiện các lễ kị nhật. Về chi tiết nghi lễ có phần cầu kì hơn khi mà hoàng quyền của nhà vua lúc này là tuyệt đối. Khâm định Đại Nam Hội điển sự lệ quyển 95, phần Nghi tiết lễ ngày kị chép: “Phàm hằng năm kính gặp ngày kị ở điện Phụng Tiên, điện Hiếu Tư, điện Long Ân; trước đó 1 ngày, hoàng thân công khanh mạng sung chánh làm lễ (trước khi yết đồ lễ tâu xin định ngày quan hữu tư dự lập đồ lễ phẩm); hoàng thân công và các chánh phụ sự đều mặc lễ phục kính chỉ; đến giờ, xướng đi giai việc, có vua dự việc, xướng: “vào chỗ”; đến chỗ rửa tay, xướng: “đến chỗ rửa tay, xướng; đến trước hương án, xướng quì, xướng dâng hương (thái giám là chấp sự) xướng: “phủ phục”, xướng dậy, xướng đứng thẳng, xướng: “tham hầu chánh mình bái (4 lạy) xướng; dậy, xướng: “đứng thẳng”; xướng làm lễ dâng rượu, xướng: “quì rượu”, xướng: “dâng rượu”; xướng: “phủ phục rượu”, xướng: “phủ phục”, xướng: “dậy”, xướng: “đứng thẳng”, xướng: “quì bái (4 lạy) xướng: dậy, xướng: “đứng thẳng”, xướng: “vào chỗ”, hiến trà (viên dâng hiến hầu rót xong, xướng: “bưng đi”, bưng đi, thái giám cúi mình bái (4 lạy) xướng: “dậy”, xướng: “đứng thẳng”, xướng: “đốt văn tế”, xướng: “lễ xong.”
Lễ xẩm tối chiều hôm ấy, quan hữu tư bày đặt lễ phẩm rồi do hoàng thân công khanh mạng mặc lễ phục làm lễ 4 lạy, không phải xướng.
Đến ngày kị, vào canh năm, sau khi bắn súng, thì vệ bày đặt lễ bộ, nghi trượng ở trước sân điện, quan hữu tư bày đặt lễ phẩm có bản ở trước thần vị, hoàng thân công và các quan văn võ đều mặc lễ phục kính chầu, sung đệm, hoàng đế ngự lễ phục khăn đệm làm lễ; hoàng thân công và các quan văn võ đi theo đứng hầu quan hành lễ, giám ti lễ rửa tay xong, xướng: ai quì, xướng: quì, xướng: tâu đến chỗ bái, xướng: tâu dâng hương, xướng: tâu quì, xướng: tâu dâng hương (thái giám là chấp sự) xướng: tâu phủ phục, xướng: tâu dậy, xướng: tâu đứng thẳng, xướng: tâu tham hầu chánh mình cung bái (4 lạy) xướng: tâu dậy, xướng: tâu đứng thẳng.
Xướng: dâng lễ tuần đầu, xướng: tâu quì, xướng: hiến rượu, xướng: tâu hiến rượu (dâng rượu dâng lên), xướng: tâu phủ phục, xướng: tâu dậy, xướng: tâu đứng thẳng, xướng: tâu quì, xướng: tâu bái (2 lạy) xướng: tâu dậy, xướng: tâu đứng thẳng.
Xướng: dâng lễ tuần hai, xướng: tâu quì, xướng: hiến rượu, xướng: tâu phủ phục, xướng: tâu dậy, xướng: tâu đứng thẳng, xướng: tâu quì, xướng: tâu bái (2 lạy), xướng: tâu dậy, xướng: tâu đứng thẳng.
Xướng: tâu biệt thần, xướng: tâu quì, xướng: tâu hiến rượu, xướng: tâu phủ phục, xướng: tâu dậy, xướng: tâu đứng thẳng, xướng: tâu chúc bái, xướng hiến trà (viên dâng hiến hầu rót nước dâng lên) xướng: tâu từ biệt thần, cúc cung bái (4 lạy) xướng: tâu dậy, xướng: tâu đứng thẳng. Xướng: tâu dậy, xướng: tâu đứng thẳng, xướng: đốt văn tế, xướng: lễ xong. Hoàng thân công và phẩm quan văn võ đều đến sân làm lễ 4 lạy, xong, đi ra. (Nếu hoàng thân công được khâm mạng kính làm lễ thay, nghi tiết cũng giống thế; duy có sau khi xướng vào chỗ, có các tiết xướng đến chỗ rửa tay, xướng rửa tay.)” [4]
Có thể thấy triều Nguyễn sự kế thừa rõ rệt từ lễ kị nhật của triều Lê ở cấu trúc nghi lễ, trình tự hành lễ, và tinh thần tôn kính đối với tổ tiên hoàng tộc. Tương tự như lễ kị thời Lê được ghi chép trong Loại chí, triều Nguyễn vẫn duy trì các bước căn bản: lễ chuẩn bị, dâng hương, hiến tửu, bái lạy, đốt văn tế và lễ tạ. Tuy nhiên, điểm khác biệt nổi bật là triều Nguyễn phân định vai trò, chức trách và động tác hành lễ một cách cực kỳ chi tiết, từng động tác đều có xướng danh, quỳ, phủ phục, đứng dậy, bái, hiến rượu, hiến trà,… được chỉ định rõ ràng, chứng tỏ mức độ nghiêm ngặt và tôn nghiêm hóa nghi thức. Ngoài ra, trong mô tả của Khâm định Đại Nam Hội điển sự lệ, các thành phần tham gia như hoàng thân công khanh, chánh phụ sự, giám ti lễ, thái giám chấp sự đều có quy định cụ thể. Điều này phản ánh tính phân cấp trật tự nghiêm minh trong hệ thống lễ nghi cung đình, nơi mỗi hành động đều thể hiện rõ vị thế của người tham dự và sự tôn kính tuyệt đối dành cho tiên đế. Đặc biệt, việc nhấn mạnh “hoàng đế ngự lễ phục khăn đệm làm lễ” cho thấy vua cũng trực tiếp tham dự vào nghi lễ tế tự, qua đó biểu thị đạo hiếu, lòng thành và uy quyền của người đứng đầu quốc gia.
3.2. Kị nhật trong nghi lễ dân gian
Trong dân gian, tục làm cúng giỗ cho người đã khuất đã có từ lâu đời. Theo ghi chép của Toàn thư thì ngay thời Lý đã thấy đề cập đến lệ giỗ Thiền sư Từ Đạo Hạnh: “Mùa hạ, nhà sư Từ Đạo Hạnh trút xác ở chùa núi Thạch Thất… Sau đó phu nhân sinh con trai, tức là Dương Hoán. Người làng cho là việc lạ, bèn rước Đạo Hạnh vào trong khám để thờ. Nay núi Phật Tích tức là chỗ ấy. Hằng năm, mùa xuân, cứ đến ngày mồng 7 tháng 3, con trai, con gái hội họp ở chùa, là hội vui có tiếng một vùng. Người đời sau ngoa truyền là ngày giỗ của sư (xác Đạo Hạnh đến khoảng năm Vĩnh Lạc nhà Minh, bị người Minh đốt cháy, người làng ấy lại đắp tượng để thờ như cũ, hiện nay hãy còn)”[5]. Sang đến thời Trần lại đặt ra lệnh cấm các quan không được dùng áo thụng tay trong ngày lễ, Toàn thư chép: “Tháng 6, cấm các quan không được dùng áo thụng tay, chỉ cho phép dùng áo hẹp tay. Dân gian, trong những ngày trai, kị, chỉ được mặc 1 lần”[6]. Như vậy về cơ bản có thể thấy ở nước ta giai đoạn Lý – Trần đã có tục cúng giỗ phổ biến trong dân gian, riêng thời Trần trong những ngày trai kị thì chỉ cho mặc áo tay hẹp.
Về quy trình ngày lễ giỗ trong dân gian, trong sách An Nam phong tục sách – Mai Viên Đoàn Triển có đề cập: “Trước ngày giỗ một ngày, phải cúng cáo gia tiên gọi là “tiên thường”. Lễ tiên thường do chủ tự đảm đương, là vì chủ tự có ruộng hương hỏa. (Chi phí) trong ngày giỗ, hoặc trích hoa lợi từ ruộng hương hỏa hoặc do con cái chung nhau đóng góp. Lễ vật nhiều, ít tùy điều kiện của gia đình. Gia đình giàu sang nhất định phải cúng tế. Khi tế bắt buộc phải khóc, (để tỏ ý) là cái tang trọn đời. Người giàu sang (đến ngày giỗ) thì mời dân làng, khách khứa, kẻ nghèo cũng mời xóm giềng bà con thân thuộc đến nhà uống chén rượu. Tựu trung, các nhà trưởng quan, (đến ăn giỗ) cũng có người vì tình nghĩa, có người vì thế lực, phần nhiều là khách không được mời, ai đến đều được khoản đãi rượu cơm. Nếu trong trường hợp như thế mà gia chủ đối xử đơn giản thì bị chê bai là keo kiệt, bẩn bụng […..] Thêm nữa, thế chế nhà thờ chỉ thờ đến bốn đời, từ năm đời trở về trước đã chôn cất thân chủ thì cũng chung một bữa mà thôi. Nước ta, con cháu phải giữ giỗ đến bảy, tám đời hoặc hơn mười đời, nếu thiếu cỗ lúc dẫn đến kiện cáo nhau, không tránh khỏi lôi thôi. Từ năm đời trở lên có thể tế cúng một lần vào ngày đầu xuân hoặc đông chí hàng năm, hơn nữa còn khiến người ta hiểu cái nghĩa cùng trong tộc họ” [7].
Trong sách Đất lề quê thói tác giả Nhất Thanh và Vũ Văn Khiêu mô tả tương đối chi tiết về lời khấn trong ngày giỗ: “Nước Đại Nam triều vua… năm thứ (mấy) tháng… ngày…, tỉnh (gì) huyện (gì), tổng, xã, thôn (gì), con hay cháu đời thứ mấy (xưng hô theo liên hệ đối với người đã khuất được cúng giỗ) tên là… cùng với vợ, con, cháu, cả gia đình, thành cần kính dâng lễ vật rượu, trầu, hoa, quả, xôi, chè, cỗ bàn, lên cha hay mẹ, hay ông, bà… tên húy là… tên thụy (hay tên hiệu) là…, mất ngày… tháng, năm (nào), chôn ở cánh đồng (nào). Hôm nay là ngày giỗ xin kính dâng lễ bạc, mời cha mẹ hay ông bà… soi xét lòng thành hâm-hưởng, phù hộ cho con cháu cả nhà được mạnh giỏi, mọi sự tốt lành. Kính mời ông bà tổ bốn đời, ba đời, cha, mẹ (đọc tên húy, tên thụy, tên hiệu của mỗi vị) cùng chú, bác, anh, em, cô, dì, chị, em, về cùng hưởng lễ cúng” [8]. Ngoài ra tác giả còn đề cập đến việc đốt vàng mã, tiền giấy, quần áo giấy được đem ra sân đốt để gửi sang thế giới bên kia. Một chén rượu cúng cũng được rưới lên đống lửa như lời tiễn đưa linh thiêng. Nhiều gia đình khá giả còn duy trì tục cúng hóa vàng vào ngày hôm sau, khiến lễ giỗ kéo dài hai đến ba ngày, thể hiện sự trọng đạo hiếu, gắn kết dòng họ và lòng tưởng nhớ sâu sắc đến người đã khuất.
Ngoài việc cúng giỗ trong gia đình, còn một phương thức cúng giỗ khác đối với những người không có con cái cúng tế đó là hình thức “mua hậu”. “Mua hậu” là tập tục của người xưa, để bảo đảm sau khi mất vẫn có người cúng giỗ. Họ sẽ mua hậu họ hoặc hậu làng, tức là gửi ruộng đất cho dòng họ hay làng, nhờ họ trích hoa lợi hàng năm để lo việc giỗ chạp mãi mãi. Tuy nhiên, việc mua hậu không dễ dàng. Người muốn mua hậu phải có đức độ, nhân hậu, được mọi người quý mến; nếu là mua hậu làng thì càng khó hơn, thường chỉ những người có công lớn với làng như giúp đỡ dân khi đói kém, góp tiền xây dựng cầu cống, chùa đình mới được làng đồng ý lập hậu. Người được nhận làm hậu sẽ được thờ cúng trọng thể, có bia đá ghi tên và công đức, ruộng hậu trở thành ruộng hương hỏa, tuyệt đối không được mua bán. Ở họ thì hậu được thờ trong nhà thờ họ, còn hậu làng có thể được lập bia hoặc miếu riêng. Thời Lê Trung Hưng hình thức mua hậu tương đối phổ biến. Có nhiều người kể cả quan hoạn cũng mua hậu để được làng thờ cúng. Ngoài ra, những Phật tử không con trai cũng “gửi giỗ” ở chùa, nhờ nhà chùa dùng ruộng cúng để lo giỗ hàng năm, biểu hiện niềm tin rằng dưới cửa Phật mọi linh hồn đều được bình đẳng, an lành.
-
Ý nghĩa lễ kị nhật và liên hệ đến thế hệ trẻ ngày nay
Lễ kị nhật (ngày giỗ) là một phong tục lâu đời trong văn hóa Việt Nam, mang ý nghĩa sâu sắc về đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Đây không chỉ là dịp để tưởng nhớ, tri ân công ơn sinh thành, dưỡng dục của tổ tiên, cha mẹ và những người đã khuất, mà còn là cách gìn giữ mối liên kết thiêng liêng giữa quá khứ – hiện tại – tương lai trong mỗi gia đình và dòng họ. Thông qua nghi lễ cúng giỗ, con cháu bày tỏ lòng hiếu kính, biết ơn, đồng thời củng cố tình cảm họ hàng, gắn kết các thế hệ trong một không khí trang nghiêm, đầm ấm và đầy tính nhân văn.
Bên cạnh ý nghĩa tâm linh, lễ kị nhật còn là một hình thức giáo dục truyền thống. Qua việc cùng nhau chuẩn bị, tổ chức cúng giỗ, con cháu được học về nguồn gốc gia đình, nề nếp tổ tiên, những giá trị đạo đức và phong tục truyền thống của dân tộc. Đây là một “bài học sống” về lòng hiếu thảo, về sự trân trọng cội nguồn điều mà không sách vở nào có thể truyền đạt trọn vẹn.
Tuy nhiên, trong bối cảnh xã hội hiện đại, nhiều bạn trẻ ngày nay dần xa rời hoặc xem nhẹ ý nghĩa của lễ kị nhật. Cuộc sống bận rộn, xu hướng sống thực dụng và ảnh hưởng của văn hóa phương Tây khiến việc duy trì các nghi lễ truyền thống đôi khi bị giản lược hoặc hình thức hóa. Một số bạn trẻ coi giỗ chỉ là dịp tụ họp ăn uống, mà quên đi phần cốt lõi là tưởng nhớ và tri ân.
Chính vì vậy, thế hệ trẻ hôm nay cần được giáo dục, khơi dậy ý thức gìn giữ và trân trọng giá trị truyền thống qua các hoạt động gia đình, trường học và cộng đồng. Việc tham gia lễ giỗ với thái độ thành kính, hiểu rõ nguồn cội, lắng nghe câu chuyện về tổ tiên sẽ giúp giới trẻ hình thành nhân cách tốt đẹp, biết sống có đạo lý, có trách nhiệm và gắn bó hơn với gia đình. Giữa dòng chảy của hiện đại hóa, việc duy trì lễ kị nhật chính là giữ gìn linh hồn văn hóa dân tộc, giúp thế hệ trẻ biết rằng, dù đi đâu, cội nguồn vẫn luôn là điểm tựa tinh thần vững chắc nhất của con người Việt Nam.
Kết luận
Lễ kị nhật không chỉ là một nghi lễ mang tính tín ngưỡng, mà còn là biểu tượng của đạo lý “uống nước nhớ nguồn” trong văn hóa Việt Nam. Qua lễ này, mỗi người được nhắc nhở về công lao sinh thành, về trách nhiệm nối tiếp và giữ gìn truyền thống gia phong. Xuyên suốt các triều đại phong kiến, lễ kị nhật được nâng tầm thành một nghi lễ mang ý nghĩa quốc gia, phản ánh rõ ràng tinh thần hiếu đạo và tư tưởng chính danh của Nho giáo trong xã hội phong kiến. Đối với thời hiện đại, tuy hình thức các lễ giỗ có thể giản lược nhưng ý nghĩa sâu xa của lễ kị nhật vẫn còn nguyên giá trị. Đây là dịp để các thế hệ trong gia đình đoàn tụ, gắn kết tình thân, đồng thời giúp thế hệ trẻ hiểu và trân trọng cội nguồn của mình. Việc duy trì và thực hành lễ kị nhật chính là cách người Việt tiếp nối mạch văn hóa ngàn đời, nuôi dưỡng lòng biết ơn và củng cố bản sắc dân tộc trong nhịp sống hiện đại hôm nay.
Chú thích:
[1] Thiều Chửu, Hán Việt tự điển, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2009, tr. 235.
[2] Phan Huy Chú Lịch triều hiến chương Loại chí, tập 2, Viện sử học dịch, Nxb Giáo Dục, Hà Nội, 2006, tr. 749 – 750.
[3] Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương Loại chí, tập 2, Sđd, tr. 750 – 752.
[4] Nội các triều Nguyễn, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ tập 6, Viện sử học dịch, Nxb Thuận Hóa. Huế, 1993, tr. 552 – 554.
[5] Viện khoa học xã hội Việt Nam, Đại Việt sử kí toàn thư, tập I, Viện sử học dịch, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1998, tr. 287.
[6] Viện khoa học xã hội Việt Nam , Đại Việt sử kí toàn thư, tập II, Viện sử học dịch, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1998, tr.188.
[7] Đoàn Triển, An Nam phong tục sách, (Nguyễn Tô Lan dịch), Nxb Hà Nội, Hà Nội, 2008, tr. 51.
[8] Phan Kế Bính, Việt Nam phong tục, Nxb Văn học, Hà Nội, 2005, tr.51.
[9] Nhất Thanh và Vũ Văn Khiêu, Đất lề quê thói, Cơ sở sản xuất Đại Nam, Sài Gòn, 1968, tr. 292.
Tài liệu tham khảo
- Toan Ánh (2005), Nếp cũ – Tín ngưỡng Việt Nam, quyển hạ, Nxb Trẻ, Hà Nội.
- Phan Kế Bính (2005), Việt Nam phong tục, Nxb Văn học, Hà Nội.
- Phan Huy Chú (2006), Lịch triều hiến chương Loại chí,tập 1, Viện sử học dịch, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.
- Nguyễn Văn Huyên (2020), Hội hè lễ tết của người Việt, Nxb Nhã Nam, Hà Nội.
- Nội các triều Nguyễn (1993), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Viện sử học dịch, Nxb Thuận Hóa, Hà Nội.
- Nội các quan bản (1998), Đại Việt sử kí toàn thư tập 1, Hoàng Văn Lâu dịch; Hà Văn Tấn hiệu đính, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
- Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục tập 4, Viện sử học dịch, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.
- Nhất Thanh và Vũ Văn Khiêu (1968), Đất lề quê thói, Cơ sở sản xuất Đại Nam, Sài Gòn
- Đoàn Triển (2008), An Nam phong tục sách, Nguyễn Tô Lan dịch, Nxb Hà Nội, Hà Nội.
