Chuyên mục chính

  • Nghi lễ vòng đời
    • Hôn lễ
    • Sinh con
    • Động thổ làm nhà
    • Mừng thọ và sinh nhật
    • Tang ma
    • Ngày giỗ
  • Nghi lễ hàng năm
    • Dịp Tết Nguyên Đán 1/1
    • Dâng sao giải hạn 15/1
    • Nguyên tiêu 15/1
    • Tết Thanh minh 3/3
    • Tết Hàn thực 3/3
    • Tết Đoan ngọ 5/5
    • Lễ Thất Tịch 7/7
    • Lễ Vu Lan 15/7
    • Tết Trung Nguyên 15/7
    • Tết Trung thu 15/8
    • Tết Trùng Cửu 9/9
    • Tết Cơm mới (10-15/10)
    • Tết Táo Quân 23/12
    • Ngày mùng 1 hàng tháng
    • Ngày rằm hàng tháng
  • Đặc trưng văn hóa Việt
    • Chữ và Nghĩa
    • Phong tục thờ cúng
    • Văn hóa giao tiếp
    • Món ăn truyền thống
    • Trò chơi dân gian
    • Trang phục truyền thống
    • Nghệ thuật truyền thống
    • Di sản văn hoá
    • Nền nếp sinh hoạt
  • Tôn giáo tín ngưỡng
    • Phật giáo
    • Công giáo
    • Thờ cúng tổ tiên
    • Thờ cúng tổ nghề
    • Tín ngưỡng thờ Thần
    • Tín ngưỡng thờ Mẫu
    • Tôn giáo khác

Menu

  • Trang đầu
  • Giới thiệu
  • Liên hệ

Follow Us

DMCA.com Protection Status
Cổ Phong
No Result
View All Result
Khóa học
Cổ Phong
No Result
View All Result
Home Nghi lễ hàng năm

NGUỒN GỐC, Ý NGHĨA VÀ TIẾN TRÌNH HÌNH THÀNH CÁC NGHI LỄ TRONG NGÀY RẰM THÁNG BẢY (Trung Nguyên tiết, Vu Lan Bồn, Xá tội Vong nhân)

Dẫn nhập Ngày Rằm tháng Bảy khởi nguyên từ một nghi lễ cúng tế trong nông nghiệp của người Hoa Hạ. Qua thời gian, cùng sự dung hòa của nhiều tôn giáo và tín ngưỡng, các nghi lễ gắn với ngày này dần định hình và được biết đến dưới nhiều tên gọi khác nhau như Tết Trung Nguyên, lễ Vu Lan hay ngày Xá tội vong nhân. Bài viết sẽ đưa độc giả tìm hiểu căn nguyên, lịch sử hình thành cũng như quá trình phát triển của những nghi lễ gắn liền với ngày Rằm tháng Bảy. Qua đó, người đọc có thể tiếp cận một cái nhìn toàn diện về một ngày lễ không chỉ mang ý nghĩa đặc biệt trong đời sống tinh thần của dân tộc Việt Nam, mà còn gắn bó mật thiết với các quốc gia trong không gian văn hóa đồng văn.

Thủy Nguyễn

Nguồn gốc

  1. Tổng quan

Rằm tháng Bảy là một trong những lễ tiết truyền thống quan trọng của Trung Quốc, thường diễn ra vào ngày 14 hoặc 15 tháng Bảy Âm lịch. Ngày này theo Đạo giáo gọi là Tết Trung Nguyên, trong Phật giáo gọi lễ này là Vu Lan Bồn, còn trong dân gian thường gọi là lễ Xá tội Vong nhân. Ngày Rằm tháng Bảy này mang hai ý nghĩa cốt lõi:

  • Tưởng nhớ và cúng tế tổ tiên, bày tỏ lòng hiếu kính.
  • Bày tỏ lòng biết ơn và hướng thiện, thể hiện tinh thần cứu độ chúng sinh.

Trọng tâm tinh thần của ngày Rằm tháng Bảy là văn hóa hiếu đạo, là dịp trọng đại để con cháu tưởng nhớ cha mẹ, ông bà và những người thân đã khuất, đồng thời cầu phúc cho gia đình.

Ngày Rằm tháng Bảy là một trong bốn đại lễ tế tự quan trọng của Trung Quốc và có nguồn gốc từ ba hệ tư tưởng lớn: Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo. Ban đầu, ngày này khởi nguyên từ lễ tế mùa thu của Nho giáo thời cổ đại, đến thời Tống dần hoàn thiện và hình thành hình thức “một ngày ba lễ”:

  • Đạo giáo tổ chức lễ tế Địa Quan để cầu xin sự phân định thiện ác, phúc họa nơi trần thế.
  • Phật giáo thực hành Vu Lan Bồn, chú trọng tinh thần báo hiếu, cứu độ vong linh.
  • Dân gian tiến hành cúng tế tổ tiên, cô hồn và các vong linh phiêu bạt.
  1. Nguồn gốc của ngày Rằm tháng Bảy

Ngày Rằm tháng Bảy là một trong những lễ hội truyền thống lâu đời của người Trung Hoa, có thể truy nguyên từ thời nhà Hạ bắt nguồn từ tín ngưỡng thờ mặt trăng. Vốn dĩ, đây là lễ hội mừng trăng tròn, xuất phát từ phong tục cổ gọi là “khiêu nguyệt” – tức ca múa dưới ánh trăng. Trong sách Lễ ký – Tế nghĩa (禮記·祭义) chép: “祭日於壇 祭月於坎…祭日於東 祭月於西”[1] / “Tế mặt trời ở đàn, tế mặt trăng ở khảm… Tế mặt trời ở phương Đông, tế mặt trăng ở phương Tây.” Tập tục tế nguyệt không chỉ phổ biến trong cộng đồng người Hoa Hạ mà còn tồn tại ở các bộ tộc Hung Nô. Vào những đêm trăng tròn, nam nữ các thị tộc thường tụ tập tại quảng trường, ca hát, nhảy múa, vừa để tưởng nhớ linh hồn tổ tiên và những người đã khuất, vừa để cầu xin sự phù hộ của các vị thần cai quản sự sống và cái chết. Chính từ phong tục “khiêu nguyệt” này, theo thời gian, đã dần hình thành nên tập tục cúng tế và cầu siêu cho vong linh vào ngày Rằm tháng Bảy.[2]

Tiến trình hình thành các nghi lễ diễn ra trong ngày Rằm tháng Bảy

Thời cổ đại, Xuân Thu và Chiến Quốc

Ngay từ buổi đầu của nền văn minh Hoa Hạ, con người sống phụ thuộc vào thiên nhiên và nông nghiệp nên các nghi lễ tế tự thường gắn liền với quy luật vận hành của thời tiết. Vào thời Xuân Thu và Chiến Quốc, các lễ tiết cơ bản được hình thành dựa trên sự quan sát thiên văn và khí hậu. Trong đó, tục tế lễ vào mùa xuân là để cầu cho mùa màng tốt tươi, tục tế lễ vào mùa thu là để tạ ơn khi có một mùa thu hoạch bội thu.

Ngày 15 tháng Bảy rơi đúng vào thời điểm mùa màng chín rộ, cũng là lúc người xưa tổ chức lễ tạ ơn trời đất và tổ tiên. Họ dâng lên thần linh và vong linh tổ tiên những sản vật như hoa quả, ngũ cốc với mong muốn báo đáp sự che chở và cầu cho năm tới tiếp tục mưa thuận gió hòa. Nghi lễ này trong sách cổ gọi là “Thu thường” hoặc “Cửu điều mới”.[3] Giai đoạn này, ngày Rằm tháng Bảy chỉ là một nghi thức nông nghiệp mang màu sắc tín ngưỡng bản địa, chưa chịu ảnh hưởng bởi các tôn giáo.

Đông Hán (25 – 220)

Từ thời Đông Hán bắt đầu xuất hiện khái niệm “中元/Trung Nguyên”, Đạo giáo từ thời này hình thành nên tín ngưỡng Tam quan đại đế[4]. Tam quan đại đế gồm có Thiên quan đại đế (ban phúc), Địa quan đại đế (xá tội), Thủy quan đại đế (giải nạn). Ba ngày này tương ứng với ngày 15 tháng Giêng, 15 tháng Bảy và 15 tháng Mười âm lịch, hợp lại thành chuỗi ba lễ tiết Tam Nguyên. Trong đó, ngày sinh của Địa quan đại đế chính là ngày Rằm tháng Bảy âm lịch. Từ đây ngày Rằm tháng Bảy chính thức gọi là “Trung Nguyên tiết”, các hoạt động diễn ra trong lễ này mang ý nghĩa cầu phúc, xá tội cho vong linh và giúp người đã khuất được an ổn nơi âm giới. Đạo giáo cũng chịu ảnh hưởng của chế độ phụ hệ và nhấn mạnh lòng hiếu thảo, do vậy, ngoài cúng tế tổ tiên, dân gian còn cúng tế những vong linh mong họ có thể yên ổn ở thế giới bên kia.

Nhà Ngụy (220 – 265), nhà Tấn (266 – 420), Nam Bắc triều (420 – 589)

Ngày Rằm tháng Bảy vốn có gốc là ngày tế tổ mùa thu từ thời cổ đại, đến khi Phật giáo du nhập vào Trung Hoa vào thời Ngụy – Tấn rồi dần thịnh hành, phát triển mạnh mẽ dưới thời Nam Bắc triều[5], lễ Vu Lan Bồn với ý nghĩa báo hiếu cha mẹ được truyền bá rộng rãi. Từ đó, lễ Vu Lan Bồn đã trở thành tên gọi quen thuộc gắn liền với ngày Rằm tháng Bảy.

Văn bia Mộ chí của phi tử họ Sở triều Tùy do văn sĩ thời Bắc Ngụy Tông Trí soạn, có chép: “ 是正月追悼,感苦備供佛事。至七月十五日,僧尼並功德,開施花饌眷眷送之,或散之真道,薦以福祚。至此日,具甘饌寶施,食食入日,化成火珠,遂不待焚,目送天日,施越亡形。錫福,設道場,設講壇,設一力所條升,導誦十方欲愿隨神之力。至月十五日,當為亡母敬天父母思憶父母已亡者,具白晷玉饌,以薦冥中,供養于大梵。佛教儀范為愿王現化,七月中元,皆為亡神設盂蘭盆施食。是日,諸香積禦一切饌之精供,誦註佛經,來供佛像于千燈之影,功德轉集,佛言大喜。故後人視此日為修勝,乃至製節日以備祀亡,良以敬孝。”[6] / “Tháng Giêng làm lễ truy điệu, bày tỏ nỗi đau thương và cúng dường Phật sự. Đến ngày mười lăm tháng bảy, Tăng Ni cùng làm công đức, bày biện hoa trái, tiễn biệt quyến thuộc, hoặc rải vào Đạo chân, để dâng phúc thọ. Đến ngày này, chuẩn bị các món ngon quý giá để cúng dường, mỗi món đều đưa vào lửa, hóa thành châu lửa, không cần đốt, mắt tiễn về trời, cúng vượt qua hình hài đã mất. Ban phúc, lập đạo tràng, dựng giảng đàn, lập nơi dẫn truyền nguyện lực của mười phương. Đến ngày rằm tháng bảy, phải vì mẹ đã mất mà tưởng nhớ cha mẹ trên trời và cha mẹ đã khuất, bày biện các món trắng ngọc để dâng nơi cõi âm, cúng dường Đại Phạm Thiên. Nghi thức Phật giáo cho rằng là do Nguyện vương hiện hóa, rằm tháng bảy Trung Nguyên, đều thiết lập Vu Lan Bồn để dâng thức ăn cho các vong hồn. Ngày này, các món ngon của nhà bếp thiền đều dùng tinh phẩm để cúng, tụng kinh chú Phật, dâng Phật tượng dưới ánh ngàn đèn, công đức hội tụ, Phật nói đại hoan hỷ. Vì thế người sau coi ngày này là ngày tu phước trọng, thậm chí lập thành tiết lễ để cúng tế người mất, thể hiện lòng kính hiếu.” Từ tháng Giêng, người ta đã làm lễ truy điệu, bày tỏ nỗi đau thương và cúng dường Phật sự, mở đầu cho một năm hướng về hiếu đạo. Đến rằm tháng Bảy, Tăng Ni cùng nhau lập đạo tràng, hành lễ công đức, bày biện hoa trái và các món ngon để cúng dường chư Phật, chư Bồ Tát và hồi hướng phúc thọ cho cha mẹ, tổ tiên. Đặc biệt, lễ Vu Lan nhấn mạnh báo hiếu, khuyên người con tưởng nhớ công ơn sinh thành, dù cha mẹ còn hay đã khuất, đồng thời mở rộng lòng từ bi để cứu độ tất cả chúng sinh, kể cả những vong linh cô đơn.

Cuốn Kinh Sở tuế thời ký (荆楚岁时记)[7] của tác giả Tông Diễn thời Nam Bắc triều, trong đó có đoạn mô tả về nguồn gốc và sự phát triển của Vu Lan Bồn vào thời này như sau: “七月十五曰,僧尼道俗悉营盆供诸佛。 按:《盂兰盆经》云:“有七叶功德,并幡花歌鼓果食送之。”盖由此也。《经》曰:“目连见其亡母在饿鬼中,即以钵盛饭往饷其母。食未入口,化成火炭,遂不得食。目连大叫,驰还白佛。佛言:‘汝母罪重,非汝一人奈何。当须十方众僧威神之力。至七月十五曰,当为七代父母厄难中者,具百味五果,以着盆中,供养十方大德。佛敕众僧皆为施主,祝愿七代父母,行禅定意,然后受食。’是时目连母得脱一切饿鬼之苦。目连白佛:‘未来世佛弟子行孝顺者,亦应奉盂兰盆供养。’佛言:‘大善!’”故后人因此广为华饰,乃至刻木割竹,饴蜡剪彩,模花叶之形,极工妙之巧。”[8] / “Ngày rằm tháng Bảy, toàn thể Tăng Ni, đạo sĩ và dân thường đều chuẩn bị lễ Vu Lan Bồn để cúng dường chư Phật. Xem trong Kinh Vu Lan Bồn có nói: “Có bảy công đức lớn, lại dùng phướn hoa, ca hát, trống nhạc, hoa quả, đồ ăn mà dâng cúng.” Ấy chính là nguồn gốc từ đây. Kinh chép rằng: “Ngài Mục Liên thấy mẹ mình đã mất đọa trong loài ngạ quỷ, bèn lấy bát cơm mang đến dâng mẹ. Nhưng cơm chưa vào miệng thì hóa thành than lửa, không thể ăn được. Mục Liên kêu khóc lớn, chạy về bạch Phật.” Phật dạy: “Mẹ ngươi tội nặng, chẳng phải một mình ngươi có thể cứu được. Phải nhờ đến oai thần lực của chư Tăng mười phương. Đến ngày rằm tháng Bảy, nên vì cha mẹ bảy đời hiện còn trong ách nạn mà sắm trăm món, năm loại trái cây, đặt vào trong bồn, để cúng dường chư đại đức mười phương. Ta truyền chư Tăng hãy vì đàn việt mà chú nguyện cho cha mẹ bảy đời, sau đó nhập định và rồi mới thọ thực.” Khi ấy, mẹ của Mục Liên liền thoát khỏi mọi khổ đau trong loài ngạ quỷ. Mục Liên bạch Phật: “Trong đời sau, những đệ tử Phật nếu muốn làm tròn hiếu đạo thì cũng nên phụng hành lễ cúng Vu Lan Bồn.” Phật dạy: “Rất lành thay!” Cho nên về sau, người đời lấy đó mà trang sức rộng rãi, thậm chí khắc gỗ, chẻ tre, dùng sáp nặn, cắt giấy màu, mô phỏng hình hoa lá, đạt đến mức độ tinh xảo khéo léo vô cùng.”

Người xưa tin rằng, trong ngày này, dâng cúng thức ăn, y phục và cúng dường chư Tăng sẽ nhờ sức chú nguyện của tăng đoàn mà cứu độ cha mẹ, ông bà và tổ tiên. Vì vậy, từ đời này sang đời khác đều thực hành lễ Vu Lan. Nói cách khác, từ cuối thời Nam Bắc triều trở đi, ngày Rằm tháng Bảy đã trở thành một ngày cố định, chùa chiền tổ chức hội Vu Lan, trở thành một nhánh trong “Vu Lan thắng hội”, và thu hút đông đảo người dân tham gia. Từ đây, ngày Rằm tháng Bảy bước vào một giai đoạn chuyển mình lớn, từ nghi lễ nông nghiệp sang nghi lễ tôn giáo, gắn liền với lòng hiếu thảo và việc cầu siêu độ.

Nhà Đường (618 – 907)

Đến thời nhà Đường, rằm tháng Bảy trở thành một trong những lễ tiết lớn nhất trong năm, với sự kết hợp của Phật giáo và Đạo giáo. Nghệ văn loại tụ (藝文類聚)[9] do Âu Dương Tuân biên soạn, trong đó dẫn lại nội dung từ Nam Bắc triều tăng truyện và Đạo kinh, đều chép rằng: “道經曰:七月十五,中元之日,地官校勾,搜選人間,分別善惡,諸天聖眾,普詣宮中,簡定劫數,人鬼傳錄,餓鬼囚徒,一時皆集,以其日作玄都大獻於玉京山,採諸花果,珍奇異物,幢幡寶蓋,清膳飲食,獻諸聖眾,道士於其日夜講誦是經,十方大聖,齊詠靈篇,囚徒餓鬼俱飽滿,免於眾苦,得還人中。”[10] / “Kinh Đạo nói: Mười lăm tháng bảy là ngày Trung Nguyên, quan Địa Quan điều tra, chọn lựa trong thế gian phân biệt thiện ác; các thiên tử, thánh chúng đều cùng đến cung điện, đơn giản định số kiếp. Người và quỷ truyền ghi chép, ngạ quỷ và tù nhân trong một thời đều tập hợp. Vào ngày ấy làm Đại Hiến huyền đô tại núi Ngọc Kinh, thu hái các hoa quả, vật quý lạ, phướn, bảo cái, món ăn thức uống thanh tịnh, dâng cúng cho các thánh chúng. Đạo sĩ trong ngày ấy suốt đêm thuyết giảng và tụng kinh này. Chư Thiên mười phương cùng xướng linh chương; tù nhân và ngạ quỷ đều no đủ, thoát khỏi mọi khổ, được hồi về cõi người.” Theo Đạo giáo, Rằm tháng Bảy trùng với Trung Nguyên tiết, tức ngày Địa Quan Đại Đế xuống hạ giới xét công tội của chúng sinh. Trong khi đó, Phật giáo tổ chức Vu Lan Bồn hội để cầu siêu cho tổ tiên và cứu độ cô hồn. Hai nghi lễ này hòa quyện, khiến ngày rằm tháng Bảy mang tính chất song hành Phật – Đạo. Tuy Phật giáo đã phát triển cực thịnh dưới thời này nhưng có thể thấy rằng trong dân gian, Rằm tháng Bảy vẫn được gọi phổ biến là Trung Nguyên tiết, còn tên gọi Vu Lan Bồn hội chủ yếu được dùng trong phạm vi Phật giáo.

Nhà Tống (960 – 1279)

Đến thời nhà Tống, ngày Rằm tháng Bảy dần dần hình thành mô hình “ba lễ một ngày”, tức là vào ngày Rằm tháng Bảy âm lịch hằng năm, vừa phải tế Địa Quan để cầu định đoạt thiện ác nơi nhân gian, lại phải cúng tế tổ tiên cùng cô hồn dã quỷ, đồng thời còn lập hội Vu Lan Bồn để siêu độ cho tiên tổ các đời. Cuốn Đông Kinh mộng hoa lục (東京夢華錄)[11] của tác giả Mạnh Nguyên Lão[12] chép về các nghi lễ ở kinh đô Bắc Tống (960 – 1127) chép: “中元節七月十五日中元節先數日,市井賣冥器、靴鞋、㡌頭、帽子、金屬假帶、五綵衣服,以紙糊架子,盤遊出售。潘樓并州東西瓦子,亦如七夕。要闌處亦賣果食、種生、花果之類,及印賣尊勝目連經。又以竹等砑成三腳,高三五尺,上織燈窓之狀,謂之盂蘭盆。掛搭衣服、冥錢在上焚之。構肆樂人。自過七夕,便般日連經、救母雜劇,直至十五日止,觀者增倍。中元前一日,卽賣練葉亭祀時鋪觀卓面。又賣麻粟竄鬼,亦是繫在桌子腳上,乃告祖先秋成之意。又賣雞冠花,謂之洗手花。十五日供養祖先,素食繒明,卽賣粽米飯,巡門叫賣,亦告成意也。又賣轉明菜、花花、油餅、餛飩、沙飩之類。城外有新壠者,卽往拜掃,禁中亦出。車馬詣道者院謁壠,本院官給祠部十道,設大會焚錢山祭麗陣亡,設設孤魂道場。”[13]/ Rằm tháng Bảy là tiết Trung Nguyên, vài ngày trước tiết Trung Nguyên, chợ búa bày bán đồ mã, giày dép, nón mũ, thắt lưng kim loại giả, áo quần ngũ sắc, dùng giấy dán làm khung mô hình, đi khắp nơi buôn bán. Phan Lâu và các rạp hát ở phía đông và tây châu thành cũng nhộn nhịp như đêm Thất Tịch. Những nơi trọng yếu cũng bán đồ ăn trái cây, cây trồng, các loại hoa trái, và cả kinh Tôn Thắng Mục Liên được in ấn đem bán. Lại dùng tre và các thứ khác làm thành ba chân, cao ba đến năm thước, phía trên đan thành hình lồng đèn, gọi đó là Vu Lan Bồn. Treo áo quần, tiền âm phủ lên trên rồi đốt đi. Mời gọi nghệ nhân, người biểu diễn (tại sân khấu, rạp). Từ sau lễ Thất Tịch, hằng ngày liền diễn tụng kinh, diễn tạp kịch “Cứu mẹ”, kéo dài đến ngày rằm mới dừng, người xem càng lúc càng đông gấp bội. Ngày trước lễ Trung Nguyên, liền bán lá luyện để dùng khi dựng đình cúng tế, trải ra trên mặt bàn tế. Còn bán “ma túc thoán quỷ” (tức hình nộm ma quỷ làm bằng hạt kê, vừng), cũng buộc dưới chân bàn, ý là báo cho tổ tiên biết mùa thu đã được mùa. Lại bán hoa mào gà, gọi là tẩy thủ hoa.” Vào ngày này, các gia đình ở kinh thành đều chuẩn bị bàn thờ cúng tế, gọi là lễ bày đồ ăn báo hiếu tổ tiên. Các nhà chùa cũng tổ chức pháp hội, trai đàn, Phật sự siêu độ, hoặc cúng thí thực, bố thí cho vong hồn. Do đó, Trung Nguyên trở thành dịp kết hợp cả nghi lễ Phật giáo và Đạo giáo. Vào ngày này, không chỉ triều đình mà nhân dân, gia đình nào cũng tham gia nghi lễ Vu Lan bồn, tổ chức trai đàn, dựng đàn chay, hoặc lập trai hội. Nhiều nhà còn bày hương án trước cửa, thắp đèn, đốt nến, bày cúng phẩm vật như dầu, bánh, trái cây, hương hoa,… Phong tục này lan truyền rộng rãi, lưu hành từ thành thị cho đến nông thôn.

Cuốn Mộng Lương lục (夢梁錄)[14] của Ngô Tự Mục, việc ghi chép về nghi lễ thời Nam Tống (1127 – 1279), chép rằng: “解目日(中元即七月十五日),一定大僧尼老寺院設齋齋製,謂之‘歲周圓之日’。解製後,神燎僧尼,從佛像假曼單,或打腳、設道業、講所不拘。其日義值中元道官教單之辰,諸家設設普度愿,與上獻祭祖。親族親賓有力者,于家設盂蘭盆會,舉七月十五日,當為亡母敬天父母思憶父母已亡者,具白晷玉饌,以薦冥中,供養于大梵。佛教儀范為愿王現化,七月中元,皆為亡神設盂蘭盆施食。是日,諸香積禦一切饌之精供,誦註佛經,來供佛像于千燈之影,功德轉集,佛言大喜。故後人視此日為修勝,乃至製節日以備祀亡,良以敬孝。”[15] / “Ngày giải mục (tức Trung Nguyên, Rằm tháng Bảy), các Tăng Ni lão ở chùa lớn nhất định lập đàn trai giới, gọi là ‘Ngày tròn chu kỳ của năm’. Sau khi giải giới, Tăng Ni cúng tế, từ tượng Phật dùng tranh giả, hoặc đi chân trần, lập đạo nghiệp, giảng pháp không câu nệ. Ngày đó chính là thời khắc của đàn giáo Đạo giáo Trung Nguyên, các nhà đều lập đàn nguyện phổ độ, cùng làm lễ tế tổ. Thân thuộc, khách khứa có điều kiện thì tổ chức Vu Lan Bồn hội tại nhà, chọn ngày rằm tháng bảy để tưởng nhớ người mẹ đã mất, kính thiên và tưởng nhớ cha mẹ đã khuất, dâng mâm lễ trắng và ngọc, cúng nơi âm giới, cúng dưỡng Đại Phạm Thiên. Nghi lễ Phật giáo cho rằng Nguyện Vương hiện hóa vào Trung Nguyên tháng Bảy, đều vì các vong linh thiết lễ Vu Lan Bồn cúng dường. Ngày đó, các món ngon tinh túy đều được cúng, tụng kinh Phật, dâng tượng Phật dưới ánh đèn ngàn ngọn, công đức tụ hội, Phật nói hoan hỷ lớn. Vì thế hậu thế coi ngày này là thời khắc tu phước tốt lành, lập thành tiết lễ để cúng tế người mất, biểu hiện lòng kính hiếu.” Từ đó có thể thấy Trung Nguyên tiết vừa mang tính quốc lễ (triều đình tổ chức), vừa là phong tục dân gian gắn bó mật thiết với đời sống thường nhật, có quy mô xã hội rộng lớn. Đặc biệt, từ đời Tống trở đi, Trung Nguyên tiết dần trở thành ngày lễ mang tính chất phổ biến toàn dân.

Từ thời Nam Bắc triều đến nhà Tống, Rằm tháng Bảy trải qua ba giai đoạn biến đổi lớn. Ở giai đoạn đầu, đây là ngày diễn ra Vu Lan Bồn hội của Phật giáo, chủ yếu tập trung vào nghi thức trai đàn và cầu siêu, diễn ra trong chùa chiền và giới thượng lưu, chưa lan rộng trong dân gian. Đến thời Đường, Vu Lan hội phát triển mạnh mẽ nhưng vì nghi thức quá xa hoa nên phần lớn dân chúng chỉ tham gia một cách thụ động, chưa hình thành thành một lễ tiết phổ biến. Đến trung kỳ Bắc Tống, khi Vu Lan Bồn của Phật giáo và Trung Nguyên tiết của Đạo giáo tồn tại song song. Dù Vu Lan Bồn vẫn giữ vai trò trung tâm nhưng Trung Nguyên tiết dần thể hiện ưu thế nhờ gắn với các nghi thức cầu siêu, cúng tế và hoạt động dân gian gần gũi với đời sống thường nhật. Nhìn lại xuyên suốt tiến trình lịch sử, ngoài một số ít sách ghi chép là Vu Lan Bồn, còn lại đều chủ yếu dùng tên Trung Nguyên. Trong đó, các sách như: Đông Kinh mộng hoa lục, Mộng Lương lục, Võ Lâm cựu sự, Tuế thời tạp vịnh, Tuế thời loại yếu,… đều dùng tên Trung Nguyên làm tên gọi chủ đề. Từ cuối thời Bắc Tống trở đi, Trung Nguyên tiết hoàn toàn chiếm ưu thế, trở thành tên gọi chính thức và phổ biến nhất của Rằm tháng Bảy. Lễ hội này nhanh chóng lan rộng trong dân gian, trở thành một sinh hoạt văn hóa có tính chất toàn quốc, tiếp tục được duy trì, phát triển và kéo dài cho đến hiện đại ngày nay.

Ngày Rằm tháng Bảy của người Việt

Việt Nam và Trung Quốc cùng nằm trong không gian văn hóa đồng văn, chịu ảnh hưởng lớn từ Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo và hệ thống lễ nghi truyền thống phương Đông. Trải qua hàng nghìn năm giao lưu và tiếp biến, nhiều phong tục, tín ngưỡng và nghi lễ từ Trung Hoa đã được du nhập vào Việt Nam, trong đó có tết Trung Nguyên, một trong ba đại tiết quan trọng của người Á Đông bên cạnh Thượng Nguyên[16] và Hạ Nguyên[17]. Rằm tháng Bảy từ lâu đã trở thành một trong những dịp lễ quan trọng và giàu ý nghĩa trong đời sống tinh thần của người Việt, là ngày hội hội tụ nhiều giá trị văn hóa, tín ngưỡng và tôn giáo, gắn liền với quan niệm về đạo hiếu, báo ân và sự giao hòa giữa âm – dương. Trong An Nam phong tục sách của Mai Viên Đoàn Triển viết: “Mười lăm tháng bảy là tết Trung nguyên, gọi là ngày “xá tội vong nhân”. Theo nhà Phật thì những ma quỷ có tội chỉ có vào ngày ấy mới được tha một đợt, cho nên mới cúng. Cỗ cúng gia tiên phần nhiều dùng vàng mã hóa đi (cho người chết). Trong chùa và trong dân gian, nhiều nơi lập đàn làm cỗ chay, thả đèn, phóng sinh, làm lễ phổ độ chúng sinh trong ba hoặc dăm bảy ngày, tốn phí rất nhiều.”[18] Vậy Tết Trung Nguyên hay Vu Lan bồn du nhập vào nước Nam từ bao giờ?

Khi tra cứu cuốn sách An Nam chí lược[19] (bộ sách được ghi nhận là sớm nhất ghi chép về địa lý, lịch sử, văn hóa của nước ta từ khởi nguyên đến cuối đời Trần), phần Phong tục của Lê Tắc[20], có chép: “Nước An Nam xưa là đất Giao Chỉ. Đời nhà Đường, nhà Ngu và đời Tam Đại, sự giáo hoá của Trung Quốc đã nhuần thấm đến…Ngày Trung Nguyên, lập hội Vu Lan Bồn, để cúng tế, siêu độ cho người chết, tốn hao bao nhiêu cũng không tiếc.”[21] Như vậy, Tết Trung Nguyên và Vu Lan Bồn du nhập vào nước ta khi nước ta còn là Giao Chỉ. Giai đoạn này, để thi hành chính sách đồng hóa nước ta, họ đưa người Hán, phong tục tập quán và tín ngưỡng của người Hán vào nước ta, dần dần những phong tục tập quán này hòa nhập vào đời sống tín ngưỡng của người Việt.

Do sự đứt đoạn về sử liệu, khoảng thời gian từ khi du nhập cho đến thời Lý không rõ Tết Trung Nguyên và Vu Lan Bồn có tách biệt độc lập hay không nhưng những sử liệu như Đại Việt sử lược hay Đại Việt sử ký toàn thư chép 2 lễ này hoạt động biệt lập. Trong đó, sách Đại Việt sử lược chép, vào năm Thần Vũ thứ 4 (1072) “Mùa thu, tháng 7 rồng vàng hiện ra ở điện Vĩnh Thọ…Tiết Trung Nguyên quần thần dâng biểu lên chúc mừng.”[22] Kế đó, sách Đại Việt sử ký toàn thư chép vào năm Hội Tường Đại Khánh thứ 9, triều Lý Nhân Tông (1118): “Mùa thu, tháng 7, bãi cỗ bàn tiết Trung Nguyên vì gặp ngày lễ Vu Lan bồn [cầu siêu cho] Linh Nhân hoàng thái hậu.”[23] Do lễ Vu Lan Bồn trùng với Tết Trung Nguyên nên nhà vua cho bãi bỏ cỗ bàn linh đình trong cung để giữ sự trang nghiêm, một ngày tổ chức hai lễ. Ngoài ra ta có thể thấy rõ, Trung Nguyên được ghi chép là một tiết chính thống của toàn dân, còn Vu Lan Bồn chỉ dừng lại ở phạm vi ngày lễ Phật giáo, khá trùng khớp với những cuốn sách ghi chép phong tục thời Đường – Tống của Trung Hoa.

Tiếp đó, vào tháng 7 năm Cảnh Trị thứ nhất (1663), sách Đại Việt sử ký toàn thư chép rằng triều đình ban bố và nhắc lại 47 điều giáo hóa, trong đó có quy định cấm những gia đình đang có tang hát xướng trong dịp lễ Trung Nguyên.[24] Qua ghi chép này có thể thấy, dưới triều Hậu Lê, nhà nước đặc biệt đề cao lễ nghi và chuẩn mực đạo đức, coi việc giữ gìn thuần phong mỹ tục là trọng yếu. Việc ban bố và nhắc lại những giáo hóa trong đó có cấm hát xướng trong thời gian để tang, nhất là vào dịp lễ Trung Nguyên, cho thấy triều đình muốn chấn chỉnh sự trang nghiêm, thanh tịnh cũng như lòng thành kính trong những nghi lễ tổ tiên, thần linh và siêu độ vong linh.

Đến thời Nguyễn, trong Đại Nam thực lục ghi chép việc vua Minh Mạng đã cho lập đàn siêu độ ở chùa Thiên Mụ ngày Rằm tháng Bảy như sau: “Lại nghĩ: đạo Phật lấy tế độ làm trọng, có lẽ giúp cho âm phúc được nhờ. Vậy sai bộ Lễ sắm vật liệu trước, đến ngày Trung nguyên truyền cho các sư tập hợp ở chùa Thiên Mụ lập đàn tràng thủy lục 21 ngày để siêu độ vong hồn những quan quân ta đã chết vì việc nước.”[25] Vua nhấn mạnh rằng “đạo Phật lấy tế độ làm trọng, có lẽ giúp cho âm phúc được nhờ”, điều đó phản ánh quan điểm kết hợp hai nghi lễ trong một. Việc nhà vua sai Bộ Lễ chuẩn bị vật liệu, huy động các sư tập trung tại chùa Thiên Mụ để lập đàn tràng thủy lục trong 21 ngày cho các quan quân tử trận cho thấy quy mô và sự trang trọng của nghi lễ, đồng thời khẳng định nó diễn ra dưới sự giám sát trực tiếp của triều đình. Dù thừa nhận rằng giáo lý Phật giáo “huyền vi, chưa chắc hiển ứng rõ rệt”, vua Minh Mạng vẫn chủ trương lập đàn chay để tưởng niệm công lao của các tướng sĩ hy sinh, qua đó thể hiện tư tưởng nhân văn và tinh thần trung hiếu. Như vậy, dưới thời Minh Mạng, ngày Rằm tháng Bảy không chỉ là dịp tưởng nhớ công ơn sinh thành, hiếu đạo của Phật giáo mà còn là lễ siêu độ cho những vong linh. Điểm này cũng đã tạo nên sự khác biệt giữa Việt Nam và Trung Quốc; tuy hai mà một, ở Việt Nam, Tết Trung Nguyên đã dung hòa với Phật giáo.

Ngày nay, ngày Rằm tháng Bảy ở Việt Nam vẫn giữ vai trò quan trọng trong đời sống văn hóa và tâm linh của người Việt. Trong dân gian, hầu hết các gia đình đều chuẩn bị mâm cỗ cúng gia tiên để tưởng nhớ tổ tiên và bày biện lễ cúng cô hồn nhằm siêu độ cho những vong linh không nơi nương tựa, mong họ được siêu thoát. Các chùa chiền trên khắp cả nước cũng tổ chức đàn tràng, tụng kinh, cầu siêu cho chư hương linh, cô hồn và chúng sinh, tạo nên một không gian linh thiêng, hòa quyện giữa đời sống thế tục và tín ngưỡng Phật giáo. Song song với đó, đây còn là dịp để con cháu bày tỏ lòng hiếu kính với ông bà, cha mẹ, thể hiện truyền thống uống nước nhớ nguồn lâu đời của dân tộc Việt.

Tổng kết

Từ ngàn đời nay, văn hóa Việt Nam luôn là sự tiếp thu, tổng hợp, chọn lọc, dung hòa và phát triển tạo nên bản sắc văn hóa riêng biệt của người Việt. Ngày Rằm tháng Bảy với nhiều tên gọi như Tết Trung Nguyên, lễ Vu Lan và ngày Xá tội vong nhân là minh chứng rõ rệt cho quá trình giao thoa ấy. Từ những tín ngưỡng Đạo giáo về Trung Nguyên Tiết và quan niệm Địa Quan xá tội, đến tinh thần báo hiếu, cầu siêu của Phật giáo qua lễ Vu Lan Bồn, người Việt đã tiếp nhận, cải biến và kết hợp phong tục và tín ngưỡng dân gian bản địa tạo nên thực hành văn hóa mang đậm bản sắc riêng. Ngày Rằm tháng Bảy vì thế không chỉ là dịp tưởng nhớ công ơn sinh thành, cầu siêu cho tiên tổ và cúng tế cô hồn, mà còn phản ánh tư tưởng nhân văn, tinh thần cộng đồng và truyền thống hiếu nghĩa của dân tộc Việt. Qua quá trình tiếp biến và sáng tạo, người Việt đã biến một lễ tiết du nhập hòa thành một phần máu thịt của văn hóa dân tộc, vừa bảo tồn được giá trị truyền thống, vừa khẳng định bản sắc văn hóa dân tộc trong dòng chảy lịch sử.

 Chú thích

[1] 鄭玄, 禮記, 中華古籍資源庫 數字古籍, 宋[960 – 1279], 第9冊. 12.

[2] 张君著, “神秘的节俗:传统节日礼俗、禁忌研究”, 南宁, 广西人民出版社, 2004, 01, 156 – 162.

[3] 张君著, “神秘的节俗:传统节日礼俗、禁忌研究”, 南宁, 广西人民出版社, 2004, 01, 156 – 162.

[4] Tam quan đại đế theo quan niệm của Đạo giáo chỉ ba vị minh quân thời thượng cổ là Nghiêu, Thuấn, Vũ, là ba vị quan cai quản trời, đất, nước. Cũng có thuyết khác cho rằng Tam quan đại đế là ba vị tướng quân thời Đường, Ngu, Chu.

[5] Nam Bắc triều (420 – 589) là một giai đoạn kéo dài gần hai thế kỷ trong lịch sử Trung Quốc, diễn ra sau sự sụp đổ của Tây Tấn và trước sự thống nhất của nhà Tùy. Trong thời kỳ này, đất nước bị chia cắt thành hai phần: phía Nam do các triều đại của người Hán cai trị, gọi chung là Nam triều; phía Bắc do các triều đại do các dân tộc thiểu số phương Bắc lập nên, gọi chung là Bắc triều. Nam triều bao gồm bốn triều đại kế tiếp nhau, đều đóng đô tại Kiến Khang (nay là Nam Kinh), đó là: Lưu Tống (420 – 479), Nam Tề (479 – 502), Lương (502 – 557) và Trần (557 – 589). Bắc triều bắt đầu với sự thống trị của Bắc Ngụy (386 – 534), một triều đại do người Tiên Ti (鲜卑) sáng lập. Sau này, Bắc Ngụy phân liệt thành Đông Ngụy (534 – 550) và Tây Ngụy (535 – 557), rồi tiếp tục chuyển sang Bắc Tề (550 – 577) ở phía Đông và Bắc Chu (557 – 581) ở phía Tây. Thời kỳ Nam Bắc triều kết thúc vào năm 589, khi nhà Tùy do Dương Kiên sáng lập thống nhất toàn bộ Trung Quốc sau khi tiêu diệt nhà Trần.

[6] 张舰戈, 南北朝至唐代中元节内涵演变考, 唐都学刊, 2019, 35(1):16 – 19.

[7] Kinh Sở tuế thời ký (荆楚岁时记) là tập hợp các ghi chép phong tục tập quán của vùng Sở thời xưa (khu vực tập trung ở hai con sông Dương Tử và Hán Giang) . Được biên soạn bởi Lương Tông Diễn (khoảng năm 501-565) thời Nam Bắc triều , tác phẩm bao gồm 37 chương, ghi chép lại 24 tiết khí và phong tục từ ngày Tết đến đêm Giao thừa.

[8] 宗懔, 荆楚岁时记, 第一章, 起点中文网, https://guoxue.httpcn.com/html/book/TBUYAZ/ILRNPWKOUY.shtml

[9] Nghệ văn loại tụ (藝文類聚) là một bộ loại thư tổng hợp do văn học gia, thư pháp gia thời Đường là Âu Dương Tuân cùng với Lệnh Hồ Đức Phần, Trần Thúc Đạt, Bùi Củ, Triệu Hoằng Trí, Viên Lãng và hơn mười người khác biên soạn vào năm Vũ Đức thứ bảy (624). Đây là bộ loại thư quan tu chỉnh lý sớm nhất hiện còn nguyên vẹn ở Trung Quốc, lưu giữ phong phú tư liệu văn hiến trước thời Đường, đặc biệt là nhiều tác phẩm thi, văn, ca, phú. Toàn bộ sách gồm 100 quyển, hơn một triệu chữ; trưng dẫn 1.431 loại sách cổ, được chia môn loại, trích lục và biên soạn tập hợp.

[10] 歐陽詢, 藝文類聚, 明嘉靖丁亥六年, 長洲陸釆刊本, 1527,  4, 16 – 17.

[11] Đông Kinh Mộng hoa lục (東京夢華錄) do Mạnh Nguyên Lão biên soạn vào năm Cảnh Khang thứ hai đời Tống Khâm Tông (1127). Tác phẩm ghi chép lại phong tục, tập quán và đời sống con người ở kinh đô Đông Kinh của triều Bắc Tống trong khoảng từ năm 1102 đến 1125.

[12] Mạnh Nguyên Lão (? – ?), sống vào thời Bắc Tống tại Biện Kinh (nay là thành phố Khai Phong, tỉnh Hà Nam). Khi xảy ra biến cố Tĩnh Khang, ông lánh nạn sang vùng Giang Tả (phía đông sông Trường Giang). Về cuối đời, trong nỗi nhớ thương sâu sắc về quá khứ huy hoàng của Biện Kinh, ông đã viết nên tác phẩm Đông Kinh Mộng hoa lục như một khúc ai ca bi thương cho nỗi đau nước mất nhà tan.

[13] 孟元老, 東京夢華錄, 毛氏汲古閣 刻, 明崇禎, 8, 5 – 6.

[14] Mộng Lương lục (夢梁錄) gồm hai mươi tập do Ngô Tử Mục sống ở cuối thời Nam Tống biên soạn. Cuốn sách này viết theo phong cách của Đông Kinh Mộng hoa lục ghi chép lại các đền chùa, cung điện, núi sông, con người, cửa hàng, sản phẩm, hộ khẩu, phong tục, thợ thủ công, chương trình tạp kỹ, trường học,… của Lâm An vào thời Nam Tống. Theo lời tựa của tác giả, cuốn sách được viết sau khi quân Nguyên chiếm được Lâm An, đánh dấu sự kết thúc của triều đại Nam Tống và sự thống nhất của Trung Quốc dưới sự cai trị của triều đại Nguyên.

[15] 吴自牧, 夢梁錄, 北京, 中华书局, 1985, 4, 2 – 3.

[16] Thượng Nguyên: Ngày Rằm tháng Giêng Âm lịch.

[17] Hạ Nguyên: Ngày Rằm tháng Mười Âm lịch.

[18] Mai Viên Đoàn Triển, An Nam phong tục sách, Nguyễn Tô Lan dịch, Nxb Hà Nội, Hà Nội, 2008, tr. 24 – 25.

[19] An Nam chí lược là một bộ sách sử do Lê Tắc (1263 – 1342) biên soạn khi sống lưu vong tại Trung Quốc ở khoảng nửa đầu thế kỷ 14 được xem như là bộ sử sớm nhất ghi chép về nước ta còn tồn tại. Nội dung sách ghi chép hỗn hợp về địa lý, lịch sử, văn hóa của nước ta từ khởi thủy đến cuối đời Trần. Nguyên bản có 20 quyển, nhưng hiện tại chỉ còn 19 quyển.

[20] Lê Tắc (1263 – 1342), khi trưởng thành gia nhập quân đội nhà Trần và làm phụ tá cho Trần Kiện. Năm 1285, quân Nguyên Mông đánh Đại Việt, Trần Kiện thua trận đầu hàng, Trần Kiện và Lê Tắc bị đưa về Đại Đô. Bộ sách An Nam chí lược được ông soạn trong khoảng thời gian sống lưu vong trên đất Trung Quốc.

[21] Lê Tắc, An Nam chí lược, Nxb Lao động, 2009, tr. 67 – 69.

[22] Trần Quốc Vượng, Đại Việt sử lược, Nxb Thuận Hóa, 2005, tr. 99.

[23] Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên,… Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb Khoa học Xã hội, 1998, tập 1, tr. 289.

[24] Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên,… Đại Việt sử ký toàn thư, sđd, tập 3, tr. 264 – 265.

[25] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Viện Sử học dịch, tập 4, Nxb Giáo dục, 2007, tr. 706.

Tài liệu tham khảo

Tài liệu tiếng Việt

  1. Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên,…(1998), Đại Việt sử ký toàn thư, tập 1, Nxb Khoa học Xã hội.
  2. Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục, Viện Sử học dịch, tập 4, Nxb Giáo dục.
  3. Lê Tắc (2009), An Nam chí lược, Nxb Lao Động
  4. Mai Viên Đoàn Triển (2008), An Nam phong tục sách, Nguyễn Tô Lan dịch, Nxb Hà Nội.
  5. Trần Quốc Vượng (2005), Đại Việt sử lược, Nxb Thuận Hóa.

Tài liệu chữ Hán

  1. 孟元老 (明崇禎), 東京夢華錄, 毛氏汲古閣 刻.
  2. 歐陽詢 (1527), 藝文類聚, 明嘉靖丁亥六年, 長洲陸釆刊本.
  3. 吴自牧 (1985), 夢梁錄, 中华书局.
  4. 鄭玄 (宋 [960-1279]), 禮記, 中華古籍資源庫 數字古籍, 第9冊.
  5. 张君著 (2004), “神秘的节俗:传统节日礼俗、禁忌研究”, 南宁, 广西人民出版社, tr. 156 – 162.
  6. 张舰戈 (2019), “南北朝至唐代中元节内涵演变考”, 唐都学刊, 35(1):16 – 19.
  7. 郝敬 (1616), 禮記通解 卷1-6, 郝氏刊行.
  8. 宗懔, 荆楚岁时记, 第一章, 起点中文网,
    https://guoxue.httpcn.com/html/book/TBUYAZ/ILRNPWKOUY.shtml

ShareTweet

Để lại một bình luận Hủy

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *


No Result
View All Result
  • Nghi lễ vòng đời
    • Hôn lễ
    • Sinh con
    • Động thổ làm nhà
    • Mừng thọ và sinh nhật
    • Tang ma
    • Ngày giỗ
  • Nghi lễ hàng năm
    • Dịp Tết Nguyên Đán 1/1
    • Dâng sao giải hạn 15/1
    • Nguyên tiêu 15/1
    • Tết Thanh minh 3/3
    • Tết Hàn thực 3/3
    • Tết Đoan ngọ 5/5
    • Lễ Thất Tịch 7/7
    • Lễ Vu Lan 15/7
    • Tết Trung Nguyên 15/7
    • Tết Trung thu 15/8
    • Tết Trùng Cửu 9/9
    • Tết Cơm mới (10-15/10)
    • Tết Táo Quân 23/12
    • Ngày mùng 1 hàng tháng
    • Ngày rằm hàng tháng
  • Đặc trưng văn hóa Việt
    • Chữ và Nghĩa
    • Phong tục thờ cúng
    • Văn hóa giao tiếp
    • Món ăn truyền thống
    • Trò chơi dân gian
    • Trang phục truyền thống
    • Nghệ thuật truyền thống
    • Di sản văn hoá
    • Nền nếp sinh hoạt
  • Tôn giáo tín ngưỡng
    • Phật giáo
    • Công giáo
    • Thờ cúng tổ tiên
    • Thờ cúng tổ nghề
    • Tín ngưỡng thờ Thần
    • Tín ngưỡng thờ Mẫu
    • Tôn giáo khác

© 2021 cophong.vn